MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Những công cụ làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ

15-04-2011 - 14:20 PM | Tài chính - ngân hàng

Một trong những nguyên tắc cơ bản của chính sách ghìm cương lạm phát là phải đảm bảo lãi suất thực dương, đồng thời không gây sốc thanh khoản cho hệ thống tài chính.

Tuy nhiên, một số công cụ chính sách tiền tệ hiện nay có vẻ như không hỗ trợ cho điều này.

Trần lãi suất

Trong vòng hai tháng qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ba lần điều chỉnh các lãi suất chủ chốt như lãi suất thị trường mở (OMO) và lãi suất tái cấp vốn. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là trần lãi suất huy động không hề được điều chỉnh.

Hậu quả tất yếu của sự điều chỉnh không đồng bộ giữa các công cụ quản lý tiền tệ này là việc các ngân hàng thương mại (NHTM) đang tung ra một loạt các sản phẩm huy động tiền gửi khác nhau nhằm lách quy định trần lãi suất này.

Trần lãi suất tiền gửi hiện nay được ấn định ở mức 14%/năm. Thoạt nhìn con số này có vẻ là đủ cao để đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền. Tuy nhiên, con số 14%/năm khi quy đổi chỉ tương đương với trần lãi suất 1,16%/tháng.

Kể từ tháng 11 năm ngoái, lạm phát lần lượt là 1,86%, 1,98%, 1,74%, 2,09%, và 2,17%. Phép cộng trừ đơn giản (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát) sẽ cho ta các con số lãi suất thực lần lượt là -0,70%, -0,81%, -0,57%, -0,93%, -1,01%.

Như vậy, lãi suất thực đã âm trong năm tháng liên tiếp. Chừng nào mức lãi suất thực còn âm thì nó sẽ không khuyến khích người gửi tiền tiết kiệm. Thay vào đó, dân chúng sẽ đầu cơ vào những tài sản có khả năng giữ được sức mua trong thời kỳ lạm phát cao như vàng và bất động sản, khiến cho cơn bão giá khó dừng lại.

Lãi suất cao có thể khiến việc mở rộng sản xuất trong dài hạn bị dừng lại, tuy nhiên nó cũng đang giúp cho một số doanh nghiệp được lợi khi có khả năng điều chỉnh giá lên tới cả chục phần trăm, mặc dù chi phí vốn vay chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng giá thành.

Công cụ trần lãi suất huy động 14%/năm hay 1,16%/tháng hiện nay không giúp tạo ra được mức lãi suất thực dương, và do đó không làm tăng được các khoản tiền gửi dài hạn để chống lạm phát. Do vậy, nền kinh tế sẽ mắc kẹt ở mức lạm phát cao và lãi suất cao trong thời gian dài.

Trong thời kỳ lạm phát cao và nhanh thay đổi, khi hợp đồng tín dụng thường được thực hiện với kỳ hạn ngắn thì mức lãi suất trần theo tháng cần phải được điều chỉnh linh hoạt. Nó cần phải ở mức cao đủ lớn để đảm bảo lãi suất thực dương.

Việc làm này mặc dù có thể khiến lãi suất theo tháng tạm thời cao hơn trong một vài tháng đầu, nhưng nó là tiền đề để có thể thu hút tiền nhàn rỗi trong lưu thông và từ đó giảm được lạm phát và lãi suất trong những tháng tiếp theo.

Ấn định trần lãi suất huy động, trong khi thả nổi lãi suất cho vay, không giúp nhiều cho việc hạn chế rủi ro hệ thống. Nó cũng không đảm bảo lãi suất thực dương để chống lạm phát.

Chính sách tiền tệ không thể bắt người dân, những người có thu nhập danh nghĩa cố định, phải “chia sẻ” với doanh nghiệp khi thu nhập thực của họ đang giảm dần theo lạm phát, và khi các NHTM vẫn báo cáo lãi hàng ngàn tỉ đồng nhờ khoảng cách lãi suất ngày được tăng lên. Việc chia sẻ nên đặt theo chiều ngược lại.

Cửa sổ tái cấp vốn

Lạm phát hiện nay đã ở mức trầm trọng, xấp xỉ 2%/tháng trong nhiều tháng liên tiếp, và khác xa so với những dự báo đầu năm của Chính phủ. Do vậy, các mục tiêu về tăng trưởng cung tiền và tín dụng cũng cần phải được điều chỉnh.

Thật đáng ngạc nhiên là trong vòng xoáy lạm phát, cung tiền và tín dụng của quí 1 vẫn lần lượt được thả ở mức trên 2% và xấp xỉ 4%. Một khái niệm về thắt chặt tiền tệ khó có thể tìm thấy ở một quốc gia nào khác trên thế giới.

Lượng tiền cơ sở trong nền kinh tế hiện nay được NHNN điều tiết chủ yếu qua hai kênh: thị trường mở và cửa sổ tái cấp vốn/tái chiết khấu. Ngoài số liệu hoạt động thị trường mở được công khai hàng ngày, chúng ta không có thông tin gì về nghiệp vụ tái cấp vốn/tái chiết khấu.

Về bản chất, việc cho vay của NHNN đối với các NHTM qua cửa sổ tái cấp vốn là một hình thức đòn bẩy tín dụng và, trừ lý do khẩn cấp về thanh khoản, nó cần được tuyệt đối hạn chế trong thời kỳ chống lạm phát cao.

Việc để mức lãi suất tái cấp vốn ở mức thấp, 11%, 12% rồi 13% trong hai tháng vừa qua, trong khi lãi suất cho vay của các NHTM lên tới xấp xỉ 20% sẽ không ngăn chặn được vấn đề rủi ro đạo đức (moral hazard).

Lý giải duy nhất cho mức tăng trưởng cung tiền/tín dụng dương đó là cụm từ “chính sách tiền tệ linh hoạt” để đảm bảo thanh khoản cho các ngân hàng. Tuy nhiên, các tiêu chí về việc ngân hàng nào, trong điều kiện nào… thì được tái cấp vốn từ NHNN lại không được công khai.

Đặc biệt, việc để mức lãi suất tái cấp vốn ở mức thấp, 11%, 12% rồi 13% trong hai tháng vừa qua, trong khi lãi suất cho vay của các NHTM lên tới xấp xỉ 20% sẽ không ngăn chặn được vấn đề rủi ro đạo đức (moral hazard).

Tức là, các NHTM sẽ kém thận trọng hơn với các quyết định kinh doanh có khả năng gây thiếu hụt thanh khoản, khi họ biết rằng NHNN cho phép, mặc dù là có sàng lọc, thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn với giá rẻ.

Giả sử lãi suất cho vay là 20%, thì cứ mỗi một hợp đồng tín dụng được chấp nhận qua cửa sổ tái cấp vốn, NHTM sẽ có thêm khoảng 7 điểm phần trăm tiền lãi.

Hạn chế tăng trưởng tín dụng và cải thiện thanh khoản của hệ thống NHTM có thể được thực hiện bằng một thông điệp cứng rắn từ NHNN đối với nghiệp vụ tái cấp vốn. Thông điệp này phải được cụ thể hóa bằng một mức lãi suất tái cấp vốn đủ lớn.

Trong thời kỳ chống lạm phát, thanh khoản của hệ thống ngân hàng phải được cải thiện nhờ thu hút tiền gửi từ công chúng chứ không thể nhờ kênh bơm tiền từ NHNN. Và điều đó chỉ có thể làm được với mức lãi suất thực dương.

Theo TS. Phạm Thế Anh
TBKTSG

phuongmai

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên