MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Phân tích tình hình tài chính ngành dược phẩm

02-09-2012 - 15:00 PM | Doanh nghiệp

Ngành dược phẩm là một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có chức năng sản xuất các loại thuốc phục vụ cho việc chữa bệnh, phục hồi và tăng cường sức khỏe của con người.

Bài viết đánh giá tình hình tài chính của ngành dược phẩm thông qua việc tổng hợp số liệu trung bình ngành từ 15 công ty dược phẩm trong ngành giai đoạn 2007 – 2011.

Tổng quan về các công ty trong mẫu nghiên cứu

Bảng 1: Tài chính của các công ty trong mẫu năm 2011

Đơn vị tính: tỷ đồng

STT

Tên công ty

Tổng tài sản

Vốn chủ sở hữu

Doanh thu thuần

Lợi nhuận sau thuế

1

CTCP Dược Hậu Giang

1.996

1.382

2.491

416

2

CTCP DOMESCO

834

575

1.132

81

3

CTCP Traphaco

838

400

1.063

89

4

CTCP Hóa Dược phẩm Mekophar

561

409

1.045

77

5

CTCP Dược phẩm Imexpharm

828

709

776

78

6

CTCP Dược phẩm Cửu Long

842

232

630

-31

7

CTCP Dược phẩm Hà Tây

304

119

630

17

8

CTCP Mediplantex

337

104

587

5

9

CTCP Dược phẩm Bến Tre

292

78

548

12

10

CTCP Dược phẩm OPC

467

306

409

50

11

CTCP Bidiphar1

250

192

292

40

12

CTCP Dược phẩm VIDIPHA

378

244

282

26

13

CTCP Dược phẩm Pharmedic

152

119

264

39

14

CTCP Dược Becamex

163

47

110

2

15

CTCP Dược phẩm Phong Phú

73

31

85

2


Cộng ngành dược phẩm

8.315

4.947

10.344

903

Xét 15 công ty dược phẩm trong mẫu nghiên cứu, tổng tài sản của nhóm đạt 8.315 tỷ đồng, tổng vốn chủ sở hữu đạt 4.947 tỷ đồng vào cuối năm 2011, doanh thu năm 2011 của nhóm đạt 10.344 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 903 tỷ đồng, đem lại một tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu bình quân là 18,3%.

Xét theo doanh thu, bốn công ty có quy mô doanh thu lớn nhất và đạt trên 1.000 tỷ đồng đó là Công ty Dược Hậu Giang, Domesco, Traphaco và Mekophar. Công ty Dược Hậu Giang là công ty có hiệu quả kinh doanh cao nhất khi đạt mức tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu năm 2011 lên tới 30%/năm.

Tốc độ tăng trưởng của ngành

Sơ đồ 1: Tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành dược phẩm


Ngành dược phẩm là một ngành đang tăng trưởng với tốc độ khá cao bất chấp tình hình kinh tế vĩ mô gặp nhiều khó khăn. Điều này được thể hiện ở cả tốc độ tăng của doanh thu và tổng tài sản. Tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm thấp nhất trong giai đoạn này là năm 2010, tuy nhiên, vẫn ở mức khá cao là 10%. Tốc độ tăng trưởng khả quan và ổn định cho thấy tính hấp dẫn về dung lượng thị phần của ngành, từ đó khuyến khích các công ty trong ngành đầu tư mở rộng sản xuất, tăng trưởng quy mô tài sản.

Trong quá trình tăng trưởng tài sản, quy mô tài sản dài hạn và tỷ trọng tài sản dài hạn trên tổng tài sản có xu hướng gia tăng. Tỷ trọng tài sản dài hạn trên tổng tài sản đã tăng từ mức 24% cuối năm 2007 lên mức 31% cuối năm 2011. Điều này cho thấy các doanh nghiệp trong ngành tích cực đầu tư mở rộng dây chuyển sản xuất để mở rộng quy mô kinh doanh.

Rủi ro tài chính của ngành

Trong giai đoạn 2007 – 2011, ngành dược phẩm đã liên tục gia tăng mức độ sử dụng nợ nhằm tài trợ cho quá trình tăng trưởng. Hệ số nợ trên tổng tài sản của ngành đã gia tăng từ mức 32% cuối năm 2007 lên mức 40% cuối năm 2011. Tuy nhiên, hệ số nợ này vẫn thấp hơn 50% cho thấy đây vẫn là đòn bẩy tài chính ở mức độ vừa phải. Trong cơ cấu nợ của ngành, chiếm tỷ trọng chủ đạo là nợ ngắn hạn dùng để tài trợ cho vốn lưu động. Tại thời điểm cuối năm 2011, nợ ngắn hạn chiếm 92% tổng nợ phải trả.

Riêng nhóm 5 công ty đầu ngành (bao gồm Dược Hậu Giang, Domesco, Traphaco, Mekophar và Imexpharm), mặc dù hệ số nợ có xu hướng gia tăng, tuy nhiên, hệ số nợ ở mức thấp hơn nhiều so với mức trung bình ngành. Kết quả này phù hợp với lý thuyết trật tự phân hạng về tài trợ, đó là các công ty này sinh lời tốt, có quy mô lợi nhuận lớn so với nhu cầu đầu tư mới, do đó, họ chủ yếu dựa vào nguồn vốn nội sinh là lợi nhuận để lại và không cần huy động nhiều các nguồn tài trợ bên ngoài, khiến hệ số nợ duy trì ở mức thấp.

Sơ đồ 2: Hệ số nợ trên tổng tài sản của ngành dược phẩm


Phân tích khả năng thanh toán của ngành

Trong giai đoạn 2007 – 2011, khả năng thanh toán của ngành có xu hướng giảm. Khả năng thanh toán hiện hành đã giảm từ mức 2,6 lần cuối năm 2007 xuống mức 1,9 lần cuối năm 2011. Tuy nhiên, đây vẫn được xem là một mức khả năng thanh toán khá cao. Khả năng thanh toán lãi vay trong giai đoạn 2009 – 2011 có sự giảm sút do ngành tăng cường sử dụng đòn bẩy tài chính và do lãi suất trong giai đoạn này có xu hướng tăng. Tuy nhiên, khả năng thanh toán lãi vay vẫn duy trì ở mức 6,9 lần năm 2011 là một mức cao. Do đó, ngành dược phẩm nhìn chung vẫn có khả năng thanh toán tốt, nhận được tín nhiệm của các ngân hàng và đây là cơ sở để các doanh nghiệp của ngành có thể tiếp cận thuận lợi vốn vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi.

Sơ đồ 3: Khả năng thanh toán của ngành dược phẩm


Khả năng sinh lời của ngành dược phẩm

Ngành dược phẩm về cơ bản là ngành duy trì được tỷ suất lợi nhuận ở mức khá cao và ổn định, ngay cả trong bối cảnh kinh tế vĩ mô gặp khó khăn. Điều này cho thấy ngành có rủi ro kinh doanh thấp mà nguyên nhân chính là do cầu về sản phẩm dược ít co giãn với giá cả. Chính vì vậy, nhà sản xuất có thể chuyển gánh nặng chi phí gia tăng sang người mua thông qua việc tăng giá sản phẩm đầu ra.

Trong giai đoạn 2007 – 2011, mặc dù nền kinh tế chịu ảnh hưởng bất lợi của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những khó khăn chung của nền kinh tế trong nước, ROE tối thiểu của ngành giai đoạn này vẫn ở mức 15,4% tại năm 2008, một mức tỷ suất lợi nhuận khả quan. Giai đoạn 2009 – 2011, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu của ngành có xu hướng giảm dần. Điều này một phần quan trọng xuất phát từ việc cạnh tranh trong ngành trở nên gay gắt hơn khiến biên lợi nhuận giảm dần.

Sơ đồ 4: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE) của ngành


Nhóm 5 công ty đầu ngành vẫn thể hiện được hiệu quả kinh doanh vượt trội khi liên tục duy trì được tỷ suất lợi nhuận cao hơn trung bình ngành. Một điểm đáng chú ý đó là, trong giai đoạn 2009 – 2011, khoảng cách giữa ROE của nhóm 5 công ty đầu ngành với ROE của ngành có xu hướng nới rộng ra, cho thấy ngành có tính kinh tế theo quy mô và các công ty lớn trong ngành duy trì được lợi thế cạnh tranh rõ ràng trước những công ty có quy mô nhỏ hơn.

Tuấn Dương

thanhhuong

Trí Thức Trẻ

Trở lên trên