Bản báo cáo nhận xét, với mức dư nợ tín dụng của DNNN ước tính ở mức
55%- 60% GDP năm 2009 thì phần dư nợ của DNNN được Chính phủ bảo lãnh
trên danh nghĩa chỉ mới chiếm khoảng 4,2%- 6,9% tổng dư nợ của khu vực
này.
Đây là mức mà khu vực này hoàn toàn có thể hoàn trả được ngay cả khi nợ xấu của khu vực này ở mức rất cao đi chăng nữa.
Tuy nhiên, khả năng đe dọa nợ công của khu vực DNNN lại nằm ở chỗ khu
vực này luôn nhận được ngân sách “mềm” từ Chính phủ. Khi các DNNN lâm
vào khó khăn, các khoản nợ trong nước của các doanh nghiệp này thường
được Chính phủ hỗ trợ dưới các hình thức bổ sung vốn, khoanh nợ, giãn
nợ, chuyển nợ, xóa nợ.
Tất cả các hình thức ngân sách mềm này cuối cùng đều sẽ khiến chi tiêu
ngân sách tăng. Và với việc ngân sách nhà nước liên tục bội chi thì để
bù đắp phần chi tiêu ngân sách cho khu vực DNNN, nhà nước sẽ buộc phải
phát hành trái phiếu. Như vậy, nợ công của quốc gia sẽ gia tăng.
Bản báo cáo này, phối hợp với Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc
(UNDP), cho rằng mối quan hệ gián tiếp gần nhất là các khoản vay ưu đãi
của các DNNN từ Ngân hàng Phát triển Việt nam (VDB).
Nguồn vốn của VDB đến từ phát hành giấy tờ có giá và nhận vốn ODA cho
vay lại chiếm 72,4% trong năm 2009. Đây là các khoản vay mà Chính phủ
đảm bảo sẽ phải hoàn trả cho các chủ nợ, hay nói cách khác đó chính là
các khoản nợ công.
Một phần lớn nguồn vốn này sau đó được VDB cho các DNNN vay ưu đãi để đầu tư.
Bản báo cáo trích lời ông Nguyễn Quang Dũng, Tổng giám đốc VDB, thì “nợ
của các tập đoàn, tổng công ty … chiếm độ khoảng 75- 80% tổng dư nợ của
Ngân hàng Phát triển. Tình hình như hiện nay, có rất nhiều đồng chí
lãnh đạo tập đoàn, tổng công ty có văn bản gửi cho tôi đề nghị lùi nợ,
giãn nợ” (Vneconomy, 13/9/2011).
Nếu đúng như vậy thì lượng tín dụng mà khu vực DNNN được Chính phủ bảo
lãnh gián tiếp thông qua VDB sẽ vào khoảng 130- 150 ngàn tỉ đồng vào năm
2009. Và như thế, phần dư nợ của khu vực DNNN được Chính phủ bảo lãnh
trực tiếp và gián tiếp lên tới 20- 25% tổng dư nợ của khu vực này vào
năm 2009.
Nợ quá hạn và khoanh nợ của VDB đối với cho vay trung và dài hạn tín
dụng đầu tư có thời điểm lên tới 8,9% vào năm 2007 nhưng đã giảm xuống
còn 3,75% vào năm 2009 chủ yếu là nhờ chương trình kích cầu của Chính
phủ năm 2009. Với tình hình kinh doanh kém hiệu quả như những năm gần
đây, nợ xấu của các DNNN tại VDB sẽ tăng lên và sẻ ảnh hưởng trực tiếp
đến các khoản vay của VDB từ phát hành giấy tờ có giá cũng như nguồn vốn
ODA.
Bên cạnh đó, với các khoản vay nợ của khu vực DNNN tại các ngân hàng
thương mại (NHTM) thì trong trường hợp khó khăn nhà nước vẫn phải đứng
ra thu xếp hoàn trả.
Chẳng hạn, hình thức khoanh nợ (như nợ của Vinashin tại các NHTM) thì
cuối cùng chính phủ vẫn phải bỏ một phần tiền ra để bù đắp; hình thức
chuyển nợ (như của Vinashin cho Vinalines và PVN) có thể khiến các DNNN
khác lâm vào khó khăn và cuối cùng gánh nặng lại đè lên vai nhà nước;
hình thức bổ sung vốn (như tăng vốn điều lệ cho Vinashin từ 9.000 tỉ lên
14.655 tỉ đồng) thì đó vẫn là tiền từ ngân sách nhà nước.
Khoản vay 45 triệu đô la từ Ngân hàng ANZ cho dự án xi măng Đồng Bành
do Tổng công ty Cơ khí xây dựng (COMA) hay Tổng công ty Máy và Thiết bị
công nghiệp (MIE) đầu tư cũng được Bộ Tài chính đứng ra bảo lãnh khi dự
án này rơi vào tình trạng thua lỗ không trả được nợ.
Báo cáo cảnh báo, một khi kinh doanh thua lỗ, các doanh nghiệp này sẽ
không thể trả nợ đúng hạn được cho các NHTM, cho Ngân hàng Phát triển
Việt nam, và cho các trái chủ nước ngoài. Do hầu hết các DNNN đều thuộc
diện “quá lớn để phá sản” nên các khoản nợ xấu này cuối cùng sẽ phải do
ngân sách nhà nước gánh trả.
Khi các DNNN lâm vào khó khăn, các khoản nợ trong nước của các doanh
nghiệp này thường được Chính phủ hỗ trợ dưới các hình thức bổ sung vốn,
khoanh nợ, giãn nợ, chuyển nợ, xóa nợ.
Tất cả các hình hình thức ngân sách mềm này cuối cùng đều sẽ khiến chi tiêu ngân sách tăng.
Và với việc ngân sách nhà nước liên tục bội chi thì để bù đắp phần chi
tiêu ngân sách cho khu vực DNNN, nhà nước sẽ buộc phải phát hành trái
phiếu. Như vậy, nợ công của quốc gia sẽ gia tăng.