Nhập siêu của Việt Nam
tháng 1.2010 là 1,3 tỉ USD. Đây là một mức nhập siêu cao, tương đương
26,5% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, lớn hơn hạn mức 20% mà Chính phủ đề
ra. Nhưng đây không phải là hiện tượng đột biến. Việt Nam đã liên tục
nhập siêu từ đầu thập niên 1990 tới nay và nhập siêu đã tăng lên rất
nhanh sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2006 (hình 1). Nhập
siêu lớn và liên tục như vậy tất nhiên là một điều không tốt cho sự ổn
định của kinh tế vĩ mô. Đâu là nguyên nhân gây ra hiện tượng này? Và
đâu là nguyên nhân đáng ngại?
Cán cân thương mại của Việt Nam theo các khu vực kinh tế, 1995 – 2008 (triệu USD)
 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009 |
Nhập siêu do mở cửa nền kinh tế
Về
mặt lý thuyết, khi các nền kinh tế được tự do thông thương với nhau,
các doanh nghiệp của nền kinh tế này có thể mua được các yếu tố đầu vào
với chi phí thấp hơn từ một số nền kinh tế khác so với trước khi thông
thương. Đồng thời các doanh nghiệp của nền kinh tế này cũng có thể bán
được sản phẩm sang một số nền kinh tế khác (không nhất thiết là các nền
kinh tế mà nó nhập khẩu) với mức giá đủ để thu được một mức lợi nhuận
chấp nhận được.
Kể
từ năm 1995 trở lại đây, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, Việt Nam chủ
yếu nhập siêu từ các nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc, nhưng lại
xuất siêu sang Mỹ và châu Âu (hình 1). Việt Nam nhập khẩu chủ yếu các
mặt hàng tư liệu sản xuất (máy móc thiết bị và nguyên, nhiên vật liệu),
khoảng trên dưới 90% tổng giá trị nhập khẩu, trong khi xuất khẩu các
mặt hàng nguyên liệu thô, sản phẩm nông nghiệp, và hàng dệt may. Các số
liệu thống kê những năm gần đây đều cho thấy, Việt Nam nhập khẩu chủ
yếu từ Trung Quốc và ASEAN các mặt hàng chính như giấy, clinker, sắt
thép, phân bón, và gỗ (> 80% tổng giá trị nhập khẩu các mặt hàng
này), hàng may mặc (> 70%), và máy móc thiết bị (khoảng 40%).
Nhập
siêu hàng tư liệu sản xuất từ các nước trong khu vực ASEAN và Trung
Quốc không phải là một lựa chọn tồi của các doanh nghiệp Việt Nam. Với
các hàng hoá nguyên vật liệu, do tính chuẩn hoá của chúng, nhập khẩu từ
các nước trong khu vực giúp doanh nghiệp tiết kiệm được rất nhiều chi
phí vận chuyển. Với các mặt hàng máy móc thiết bị, do trình độ tay nghề
của nhân công Việt Nam còn kém, cộng với yêu cầu về chất lượng sản phẩm
của thị trường trong nước chưa cao, việc lựa chọn các công nghệ lạc hậu
hơn, thậm chí đã sử dụng, với chi phí thấp hơn rất nhiều so với công
nghệ tiên tiến ở các nước Âu – Mỹ, sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt
Nam có thể tạo ra được sản phẩm với giá thành thấp.
Đây rõ ràng là một
lợi thế địa lý của Việt Nam so với các nước khác, như ở châu Phi hoặc
Đông Âu, vốn nằm cách xa các nước công nghiệp mới thuộc ASEAN và Đông
Á. Với giá thành thấp, hàng hoá chế biến của Việt Nam có thể xuất khẩu
và cạnh tranh được với hàng hoá sản xuất trên khắp các châu lục, ở thị
trường các nước phát triển như châu Âu và Mỹ. Hình 1 cho thấy xuất siêu
của Việt Nam sang Mỹ và châu Âu đã tăng liên tục trong những năm gần
đây.
Nhập
siêu hàng tư liệu sản xuất với giá thành thấp từ các nước trong khu vực
là một yếu tố quan trọng giúp Việt Nam thu hút được nhiều đầu tư nước
ngoài (FDI). Một mặt, khu vực FDI có thể nhập khẩu trực tiếp các mặt
hàng với giá cả phải chăng từ trong khu vực. Điều này thể hiện qua việc
nhập khẩu từ khu vực FDI chiếm tới 36% năm 2009. Mặt khác, nhờ hàng tư
liệu sản xuất có giá thành rẻ, các doanh nghiệp trong nước có thể cung
cấp được cho các doanh nghiệp FDI các chi phí đầu vào như điện, ximăng,
sắt thép, các mặt hàng tiêu dùng v.v. với mức giá thấp hơn so với các
nơi khác trên thế giới. Hình 2 cho thấy mối tương quan giữa FDI (đăng
ký và thực hiện) vào Việt Nam và nhập siêu từ riêng Trung Quốc và Trung
Quốc + ASEAN.
Diến biến nhập siêu từ Trung Quốc và ASEAN và đầu tư nước ngoài của Việt Nam, 1995 – 2008 (triệu USD)
 |
Chú thích: (*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước. |
Nguồn: tổng hợp từ số liệu của tổng cục Thống kê, 2009 |
Tất
nhiên, Việt Nam cũng có thể giảm được mức độ nhập siêu từ các nước
trong khu vực nếu như các doanh nghiệp Việt Nam chịu khó tiếp cận các
thị trường này hơn nữa. Trong khi hàng hoá của Việt Nam có thể cạnh
tranh được với hàng hoá của các nước trong khu vực trên thị trường Mỹ
và châu Âu thì lại kém cạnh tranh với hàng hoá của chính các nước này
ngay trên thị trường khu vực và thậm chí tại Việt Nam. Mặc dù giá trị
xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN tăng khá nhanh nhưng tỷ
trọng xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang
ASEAN (trừ gạo) vẫn ở mức dưới 20% tổng giá trị xuất khẩu của các mặt
hàng này. Thị trường khu vực hiển nhiên dễ tính hơn so với thị trường
của các nước đã phát triển. Chi phí vận chuyển, giao dịch rõ ràng rẻ
hơn. Trên một số phương diện khác, thị hiếu của người dân các nước này
cũng khá gần với thị hiếu của người Việt Nam. Nếu trong thời gian tới,
các doanh nghiệp Việt Nam nhận ra điều này và điều chỉnh các chiến lược
xuất khẩu sang khu vực ASEAN và Trung Quốc, chúng ta hy vọng tình hình
nhập siêu từ khu vực ASEAN và Trung Quốc sẽ giảm bớt.
Như
vậy, nhập siêu từ một khu vực kinh tế cụ thể nào đó do mở cửa kinh tế
với thế giới bên ngoài không phải là một điều xấu. Nó là một hiện tượng
bình thường của nền kinh tế thị trường và về cơ bản giúp cho nền kinh
tế phát triển tốt hơn. Nó là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam nâng
cao năng lực sản xuất của mình theo chuẩn mực quốc tế.
Nguyên nhân chính: chính sách tỷ giá
Việc
cán cân thương mại của Việt Nam bị thâm hụt ngày càng lớn sau khi gia
nhập WTO, đe doạ làm mất cân đối cán cân thanh toán tổng thể, xuất phát
từ những nguyên nhân khác, trong đó quan trọng nhất là nguyên nhân tỷ
giá.
Trong cơ
chế tỷ giá thả nổi, một mặt tỷ giá phụ thuộc vào cán cân thương mại
trước đó (và các dòng ngoại tệ khác như vốn đầu tư nước ngoài, các
khoản vay và viện trợ nước ngoài, kiều hối, du lịch, các khoản đầu
tư/chuyển ra nước ngoài, và sự thay đổi quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia)
nhưng mặt khác bản thân tỷ giá lại là yếu tố điều chỉnh cán cân thương
mại trong tương lai trở về trạng thái cân bằng trong mối quan hệ tổng
thể với các dòng vốn khác. Giả sử ở một thời điểm nào đó, nhu cầu nhập
khẩu tăng cao khiến nhu cầu ngoại tệ trong nước tăng lên tương ứng. Nếu
tỷ giá được thả nổi, giá ngoại tệ sẽ tăng một cách tương đối so với giá
bản tệ. Sự tăng giá ngoại tệ khiến cho nhập khẩu trở nên đắt đỏ, đồng
thời xuất khẩu lại được lợi. Nhờ cơ chế này khiến cho nhu cầu nhập khẩu
giảm, xuất khẩu được lợi dẫn đến cung ngoại tệ sẽ tăng. Kết quả là
không những nhập siêu giảm mà giá ngoại tệ cũng giảm trở lại. Cả cán
cân thương mại và tỷ giá trở về trạng thái cân bằng.
Lấy
Thái Lan làm ví dụ (hình 3). Đầu năm 2005, nền kinh tế Thái Lan nhập
siêu lớn. Nhờ cơ chế tỷ giá thả nổi nên đồng baht tự động bị mất giá,
giúp cho nhập siêu giảm. Nhìn trên đồ thị ta có thể thấy gần như bất cứ
khi nào xu hướng nhập siêu tăng thì đồng baht sẽ có xu hướng mất giá và
ngược lại. Xét trong một giai đoạn dài, chẳng hạn năm 2006 – 2007, khi
Thái Lan có xu hướng xuất siêu lớn, giá trị đồng baht đã tăng rất
nhanh. Ngược lại năm 2008, khi nền kinh tế Thái Lan có xu hướng nhập
siêu, đồng baht mất giá trở lại. Chính nhờ cơ chế tỷ giá thả nổi như
vậy nên cán cân thương mại hàng tháng của Thái Lan luôn dao động trong
trạng thái khá cân bằng trong biên độ +/– 2 tỉ USD.
Biến động tỷ giá và cán cân thương mại của Thái Lan, T1.2005 - T12.2009
Cơ
chế tỷ giá của Việt Nam rất tiếc đã không đảm nhiệm được chức năng điều
hoà cán cân thương mại. Do tỷ giá chính thức về cơ bản là cố định nên
trong hầu hết quãng thời gian các năm 2006, 2007 và 2009 tốc độ nhập
siêu ngày càng tăng mạnh nhưng tỷ giá thì hầu như không thay đổi; ngược
lại, trong giai đoạn nửa cuối năm 2008, bất chấp tốc độ nhập siêu giảm
dần, VND lại vẫn mất giá rất nhanh (hình 4). Có thể nói, cơ chế tỷ giá
chính thức áp đặt cho nền kinh tế đã làm cho các chủ thể kinh tế “tê
liệt cảm giác” về giá trị tương đối của hàng hoá trong nước và ngoài
nước cũng như giá trị tương đối của ngoại tệ và bản tệ. Nó là tác nhân
chính gây ra tình trạng nhập siêu ngày càng nghiêm trọng của Việt Nam.
Biến động tỷ giá và cán cân thương mại Việt Nam, T1.2006 – T12.2009
 |
(Tỷ
giá USD/VND là tỷ giá trung bình tháng do các ngân hàng thương mại niêm
yết – cán cân thương mại là số liệu ước tính lấy từ bản tin hàng tháng
của tổng cục Thống kê) |
Trong
một nền kinh tế mở, nhập siêu từ một khu vực kinh tế nào đó là chuyện
bình thường; ngay cả nhập siêu tổng thể cũng chưa hẳn là điều đáng
ngại. Sự tập trung của dư luận vào những con số nhập siêu cũng như đối
tác nhập siêu có thể khiến cho giới làm chính sách hướng vào những
chính sách sai lầm như xây dựng thêm các hàng rào bảo hộ thương mại
thay vì tập trung giải quyết nguyên nhân đích thực gây ra nhập siêu dai
dẳng và ngày một lớn như hiện nay. Đó là cơ chế tỷ giá cứng nhắc, thay
đổi giật cục.
Theo Đinh Tuấn Minh
VEPR, trường Kinh tế,
đại học Quốc gia Hà Nội
SGTT