MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Nhìn lại 5 năm xuất khẩu Việt Nam: Samsung “hắt hơi”, thị trường “bị cảm”

Thị trường xuất khẩu Việt Nam trong những năm trở lại đây gặp 2 vấn đề lớn, đó là quá phụ thuộc vào một số thị trường chính quen thuộc và dựa quá nhiều vào các doanh nghiệp FDI.

Trong giai đoạn 2010 – 2016, xuất khẩu hàng khoá đang có xu hướng tăng chậm dần, giảm từ mức tăng 34,2% năm 2011 xuống chỉ còn 7,9% năm 2015 và 8,6% năm 2016.


Tốc độ tăng xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá 2006 - 2016 (%)

Tốc độ tăng xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá 2006 - 2016 (%)

Phụ thuộc vào một số thị trường lớn quen thuộc

Nhìn lại thị trường xuất khẩu của Việt Nam 5 năm trở lại đây, ông Đinh Tuấn Minh, Giám đốc điều hành Market Intello nhận xét thị trường xuất khẩu tuy đa dạng nhưng lại tập trung cao vào các thị trường chính, xu hướng đa dạng hoá chậm.

Ghi nhận của Market Intello cho thấy sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt tại trên 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Các thị trường lớn nhất theo giá trị xuất khẩu giai đoạn 2011 – 2015 là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Hong Kong, Malaixia, Tiểu vương quốc Arập thống nhất, Anh, và Australia.

Châu Á là khu vực xuất khẩu chính của Việt Nam với tỷ trọng 49,4% trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2015, trong đó Trung Quốc và ASEAN vẫn là các đối tác chính. Năm 2016, trong khi tăng trưởng xuất khẩu cả nước là 8,6%, xuất khẩu sang thị trường lớn nhất là Trung Quốc và Hoa Kỳ đã lần lượt tăng tới 26,5% và 14,5%.

“Mức độ tập trung xuất khẩu vào các thị trường chính gần như không thay đổi thậm chí là có phần tăng cao trong những năm vừa qua”, ông Đinh Tuấn Minh nói.

Trong số các thị trường xuất khẩu năm 2016, số thị trường đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD là 28 thị trường với tổng kim ngạch 160,8 tỷ USD, chiếm 91% tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của cả nước.

So với năm 2015, danh sách trên giảm một thị trường là Nam Phi, chỉ đạt kim ngạch 868,8 triệu USD. Trong khi số lượng thị trường lớn giảm, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu tới 3 và 5 thị trường hàng đầu tăng mạnh trong năm 2016 cho thấy mức độ tập trung cao hơn vào các đối tác thương mại trọng tâm.


Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (% tổng kim ngạch xuất khẩu)

Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (% tổng kim ngạch xuất khẩu)

Những dấu hiệu trên cho thấy nhiều khó khăn trong thực hiện định hướng đa dạng hóa thị trường xuất khẩu của Việt Nam.

Samsung “hắt hơi”, xuất khẩu Việt Nam "bị ốm"

Theo ông Đinh Tuấn Minh, xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh và chiếm tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu ngày càng lớn. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng với tốc độ trung bình 21,3%/năm trong 5 năm gần đây (cao hơn mức tăng xuất khẩu cả nước trung bình là 12,7%) và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Đến năm 2016, xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đã cao gấp hơn 2 lần doanh nghiệp 100% vốn trong nước, chiếm tỷ trọng 72% trong tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 2010 mới chỉ chiếm khoảng 47%). Đặc biệt trong năm 2015 và 2016, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa khu vực trong nước giảm lần lượt 8,5% và 2,8% so với năm trước (lần cuối cùng suy giảm là từ năm 2009), cho thấy một giai đoạn khó khăn của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu cũng khiến cho Việt Nam rơi vào thế bị động trong “cuộc chơi”. Bởi khi nhớ lại, những sự cố như nổ pin Samsung Galaxy Note 7 hồi cuối năm 2016, hay tuyên bố cắt giảm sản lượng smartphone mới đây của Samsung – đơn vị chiếm đến hơn 20% kim ngạch xuất khẩu cả nước đều khiến cho thị trường ít nhiều bị tác động.

Với những thách thức đó, cùng với diễn biến chính trị khó lường tại nhiều quốc gia phát triển và chính sách thương mại chưa rõ ràng của Mỹ, sẽ đòi hỏi chính phủ và các cơ quan xúc tiến thương mại quốc tế có những biện pháp thích hợp để đảm bảo sự phát triển bền vững của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.

"Hàng hóa của Việt Nam có tận dụng được các thị trường chất lượng cao này hay không phụ thuộc vào khả năng áp dụng công nghệ kỹ thuật, cải thiện mẫu mã, bao bì và xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp Việt", ông Đinh Tuấn Minh cho biết.

Đối với thị trường ASEAN, Việt Nam cần nhận thức rõ sức ảnh hưởng của AEC đến cạnh tranh giữa hàng hóa các nước trong khu vực trong thời gian tới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức để sản phẩm trong nước tiếp cận với người dùng tại các quốc gia có vị trí địa lý và thị hiếu tiêu dùng tương đồng với Việt Nam.

Nam Dương

Trí Thức Trẻ

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên