Hạn chế thanh toán bằng tiền mặt: Có hợp lý, khả thi?
Dự thảo nghị định thanh toán bằng tiền mặt do NHNN soạn thảo với nhiều biện pháp khá sốc, như tăng phí rút tiền mặt, cấm dùng tiền mặt để thanh toán khi mua nhà, ô tô… đang gây ra nhiều ý kiến khác nhau.
Để xây dựng một dự thảo chính sách, bao giờ cũng qua 3 bước phân
tích: nguyên nhân phải xây dựng; mục tiêu đặt ra; giải pháp thực hiện và
dự liệu kết quả.
Đối với dự thảo nghị định thanh toán bằng tiền mặt, giải thích về nguyên
nhân, cơ quan soạn thảo cho rằng dự thảo được xây dựng nhằm phù hợp với
định hướng của Nhà nước về đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và
hạn chế thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế, góp phần minh bạch
hóa các giao dịch kinh tế và phòng, chống tham nhũng.
Tuy nhiên, việc quy định về các giao dịch bằng tiền mặt phải có lộ
trình phù hợp với thói quen, trình độ dân trí và điều kiện hạ tầng phục
vụ thanh toán; đồng thời không làm cản trở hoạt động của tổ chức, cá
nhân; không gây tác động tiêu cực đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
Vì thế, theo nhiều chuyên gia, trong tờ trình của NHNN không có bằng
chứng nào cho thấy những mặt trái của thanh toán không dùng tiền mặt
(chẳng hạn như chi phí lớn, tốn kém cho xã hội). Và nếu không tìm ra lý
do, có cần thiết hạn chế thanh toán bằng tiền mặt?
Nhiều ý kiến cũng băn khoăn, liệu hạn chế thanh toán bằng tiền mặt có
giúp minh bạch hóa các giao dịch kinh tế, Nhà nước có chống được thất
thu thuế, tham nhũng? Đó là những vấn đề cơ quan soạn thảo cần phân tích
cụ thể để làm rõ trước khi đưa ra giải pháp quản lý.
Đi sâu phân tích những biện pháp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt mà
dự thảo đưa ra, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng nếu không tính toán kỹ
sẽ lợi bất cập hại.
Theo dự thảo, để hạn chế dùng tiền mặt, sẽ quy định một mức phí thống
nhất cho mọi giao dịch tiền mặt mà tổ chức tín dụng được quyền thu,
nhưng trong đó có sự khác nhau giữa các loại giao dịch cụ thể. Đề xuất
đưa ra là quy định mức phí rút tiền mặt cao hơn phí chuyển khoản.
Ở một số nước trên thế giới, thanh toán không dùng tiền mặt rất phát
triển bởi giá dịch vụ rẻ, chất lượng tốt, tiện lợi hơn thanh toán bằng
tiền mặt. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là cùng mục đích khuyến khích không
dùng tiền mặt, tại sao dự thảo không đặt vấn đề giảm phí thanh toán
không dùng tiền mặt, mà lại tính chuyện tăng phí rút tiền mặt?
Nhiều chuyên gia tham dự tọa đàm đồng tình rằng dự thảo trên cần được
xây dựng theo hướng giảm chi phí các biện pháp thanh toán ngoài tiền
mặt, gia tăng sự tiện lợi cho người sử dụng. Đây mới là những giải pháp
cần quan tâm chứ không phải là những giải pháp cấm đoán như trong dự
thảo.
Chẳng hạn, với quy định, các giao dịch có giá trị cao như mua bán bất
động sản, phương tiện giao thông… phải thanh toán qua ngân hàng mới được
coi là chi phí hợp lệ hoặc được nộp thuế trước bạ, sang tên, cấp sổ đỏ…
Nếu xem xét trên góc độ lợi ích của Nhà nước, mục tiêu minh bạch hóa
giao dịch kinh tế lớn để chống tham nhũng hay thất thu thuế vẫn chưa rõ
ràng, bởi khi có thêm chứng nhận giao dịch qua ngân hàng, cơ quan quản
lý có nhiều dữ liệu hơn, nhưng chưa chắc đã có nhiều thông tin hơn.
Chi phí tổ chức thực hiện chính sách này nếu được thông qua (từ hướng
dẫn đến thực thi, giám sát) sẽ tăng lên. Trong khi đó, đối với các tổ
chức kinh tế và người dân - đối tượng bị ảnh hưởng chính bởi quy định
hạn chế này, hầu như không có một tác động tích cực nào.
Trong khi tác động tiêu cực là họ sẽ phải mất thêm chi phí khi giao dịch
qua ngân hàng, bị buộc phải từ bỏ thói quen thanh toán lâu nay, nhưng
chưa thấy được đáp ứng bằng dịch vụ nào có chất lượng tốt hơn, thuận
tiện hơn.
Đối với ngân hàng, tác động tích cực là tăng thu từ nguồn phí giao dịch.
Còn ở khía cạnh tiêu cực sẽ có 2 tình huống xảy ra: tiền sẽ được người
dân để trong ngân hàng, hạn chế rút; hoặc là người dân sẽ không gửi ngân
hàng mà để tiền ở nhà.
Vậy chính sách này có nên ban hành, có lợi cho ai? Còn nếu ban hành
chính sách mà người dân bị thiệt hại ai bù đắp? Một chuyên gia đã bày
tỏ: Với chính sách trên, ngân hàng sử dụng “một mũi tên trúng hai đích”,
đó là ngân hàng vừa thu được phí, vừa buộc người dân phải sử dụng các
dịch vụ thanh toán khác.