Không điều chỉnh tỷ giá từ nay đến Tết Âm lịch và thả nổi
lãi suất là thông điệp được Chính phủ phát đi ngày 4-11-2010.
Điểm nhấn của
thông điệp là sự rõ ràng về thời hạn, sự dứt khoát và lần đầu tiên kể từ nhiều
tháng qua một giải pháp có tính tháo gỡ mạnh mẽ những tồn tại được áp dụng: trả
lãi suất cho thị trường.
Không dọn đường cho
dòng vốn “nóng”, mà...
Không điều chỉnh tỷ giá để kiểm soát lạm phát là một quyết
định đúng trong thời điểm hiện tại. Nếu tỷ giá được điều chỉnh thêm 3-5% theo
hướng tiền đồng mất giá so với đô la Mỹ, lạm phát sẽ tăng thêm 0,6-1% ngay
trong tháng 11 này. Dữ liệu tiền đồng mất giá 1% sẽ khiến chỉ số CPI tăng 0,2%
là tính toán của chính Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trước đây.
Tuy nhiên việc giữ nguyên tỷ giá trong bối cảnh đồng đô la
Mỹ đang rơi tự do trên thế giới so với các đồng tiền khác cũng đồng nghĩa chấp
nhận sự lên giá của tiền đồng. Liệu Việt Nam có đang dọn đường cho dòng vốn
“nóng” chảy vào?
Một quan chức của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, trao đổi
với TBKTSG: “Dòng tiền “nóng” không vào, trong cái rủi có cái may, nó không gây
bong bóng tài sản buộc chúng ta phải xử lý. Giữ ổn định tỷ giá là để ổn định vĩ
mô và tạo sự luân chuyển bình thường, thu hút vốn đầu tư lâu dài”.
Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, việc giữ nguyên tỷ giá không
thể không tạo sự chú ý của dòng tiền “nóng” bên ngoài. Những tháng qua tiền
“nóng” không vào là bởi giới đầu tư nước ngoài nghĩ rằng tỷ giá chính thức sẽ
còn thay đổi. Nay rào cản tỷ giá được tháo bỏ, thì việc họ vào chỉ còn là vấn
đề thời gian.
Sự thay đổi của mục
tiêu
Từ trước đến nay, NHNN có hai nhiệm vụ: ổn định giá trị đồng
tiền và kiểm soát lạm phát. Nhiều tháng qua, nhiệm vụ kiểm soát lạm phát được
ưu tiên số một và bây giờ với thông điệp của Chính phủ, ổn định giá trị đồng
tiền đã nhảy một bậc từ số hai lên số một. Đây là bước nhảy hợp lý vì thả nổi
lãi suất cũng chính là con đường gần nhất để tăng giá trị cho đồng nội tệ, qua
đó kiềm chế lạm phát.
Thả nổi lãi suất không phải là điều mới mẻ. NHNN đã áp dụng
lãi suất thả nổi từ năm 2002. Song, gần đây thả nổi lãi suất vừa được phép thực
hiện lại vừa bị cấm thông qua những đồng thuận về lãi suất trong khuôn khổ Hiệp
hội Ngân hàng. Xét cho cùng những đồng thuận đó đã làm chi phí vốn của cả ngân
hàng và doanh nghiệp tăng cao, làm méo mó thị trường vốn. Hơn nữa, thực tế cho
thấy cho dù đồng thuận, lãi suất cũng không giảm được bao nhiêu.
Lãi suất tiền
gửi chính thức của các ngân hàng thương mại giảm được 0,2%/năm, thì các hình
thức khuyến mãi lại gia tăng dồn dập. Lãi suất thực tế không thể giảm, nhưng
chúng ta đã cố gắng ép nó phải xuống.
Một số ngân hàng quốc doanh công bố lãi
suất cho vay 12%/năm, nhưng thử hỏi có bao nhiêu doanh nghiệp được vay với lãi
suất đó (lãi suất thuần không cộng thêm phí)?
Không ít người lo lắng việc thả nổi sẽ đẩy mặt bằng lãi suất
lên cao. Sự lo lắng đó có cơ sở. Nhưng ít nhất, mặt bằng lãi suất tới đây sẽ là
lãi suất thật, không phải lãi suất báo cáo.
Thực tế các doanh nghiệp vẫn đang
vay với lãi suất 15-16%/năm, nay lãi suất báo cáo có “nhảy” từ 12% lên 16%/năm
thì cũng chỉ là thực tế đó thôi, song là thực tế với đúng nghĩa của nó.
Mặt khác, các tổ chức tín dụng cũng không dại gì đẩy lãi
suất tiền gửi lên quá cao, để rồi nâng lãi suất cho vay lên theo bởi như thế họ
sẽ mất khách hàng. Sẽ không có doanh nghiệp làm ăn chân chính nào chịu đựng
được lãi suất quá cao.
Ngoài ra, đẩy lãi suất lên cũng đồng nghĩa với việc ngân
hàng tự hại chính mình. Vì thế các ngân hàng sẽ phải tính toán mức của lãi suất
vừa phải để họ có lãi và doanh nghiệp cũng vay được.
Điều đáng quan tâm là lãi suất mà NHNN “bơm” tiền ra qua
kênh thị trường mở phải được điều chỉnh. Lãi suất chiết khấu và tái cấp vốn có
thể phải ở mức 10%/năm, ngang với lãi suất liên ngân hàng.
Mức cản 10%/năm sẽ
giúp giải quyết sự đầu cơ, ăn trên lưng vốn của NHNN vì với mức lãi suất này,
các tổ chức tín dụng sẽ không còn mặn mà giao dịch thị trường mở để lấy tiền
quay vòng mua trái phiếu chính phủ.
Tất nhiên, để phát hành được trái phiếu, có
khả năng Bộ Tài chính phải nâng lãi suất trái phiếu lên theo mặt bằng lãi suất
chung và một khi trái phiếu không bán được (vì người mua đòi lãi suất cao hơn)
thì đầu tư công phải giảm đi. Đó cũng là một khía cạnh của kiểm soát lạm phát.
Theo Hải Lý
TBKTSG