MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Tránh tranh chấp trong bảo lãnh ngân hàng

21-04-2013 - 19:05 PM | Tài chính - ngân hàng

Thực tế ghi nhận từ tòa án và các văn phòng luật sư cho thấy, gần đây có những vụ tranh chấp liên quan đến bảo lãnh ngân hàng phát sinh nhiều rắc rối.

Bảo lãnh “vô giá trị”

Trường hợp tranh chấp từ hợp đồng thuê cọc của Công ty CP XNK Thép hình miền Bắc (bên A) và Công ty CP Đầu tư Văn Phú Building (bên B) là một ví dụ. Một ngân hàng TMCP lớn ở miền Bắc đã phát hành chứng thư bảo lãnh cam kết không hủy ngang và khẳng định chịu trách nhiệm thanh toán tối đa theo giá trị thư bảo lãnh ngay sau khi nhận được văn bản yêu cầu đầu tiên kèm theo hồ sơ chứng minh bên B đã vi phạm hoặc không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ thanh toán. Kết quả khi bên đi thuê không trả tiền, ngân hàng yêu cầu bên cho thuê phải chứng minh sự vi phạm của bên đi thuê mới thanh toán bảo lãnh, dẫn đến tranh chấp xảy ra.

Hoặc như trường hợp tranh chấp về bảo lãnh xảy ra giữa Agribank và nhiều DN khác có liên quan đến Công ty Tân Hồng. Theo đó, chi nhánh Agribank Hồng Hà đã cấp bảo lãnh cho Công ty Tân Hồng khi tham gia mua hàng hóa của một số DN khác. Tuy nhiên, sau đó Công ty Tân Hồng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán và phía Agribank cũng từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Lý do mà Agribank đưa ra là bảo lãnh được cấp sai quy trình, không hạch toán…

Cách nào hạn chế?

Theo Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc Công ty Luật Basico, có nhiều cạm bẫy trong một thư bảo lãnh có thể dẫn đến tranh chấp.

Đầu tiên là điều kiện của bảo lãnh, có nhiều ngân hàng phát hành bảo lãnh trong đó yêu cầu bên thụ hưởng phải chứng minh được vi phạm của bên được bảo lãnh, khi đó ngân hàng mới thanh toán. Tuy nhiên, điều khoản như trên thường dẫn tới bế tắc cho cả 3 bên bởi ngay cả khi bên thụ hưởng bảo lãnh cung cấp hồ sơ đầy đủ và yêu cầu thanh toán bảo lãnh thì bên được bảo lãnh cũng cho rằng họ chưa vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Khi đó ngân hàng cũng khó xử bởi nếu thanh toán thì không thể bắt bên được bảo lãnh nhận nợ bắt buộc nhưng nếu không thanh toán thì rơi vào tranh chấp với bên thụ hưởng.

 “Do đó, các công ty chỉ nên nhận các bảo lãnh “vô điều kiện”, tức là chỉ cần bảo lãnh đến hạn, bên thụ hưởng có yêu cầu thanh toán thì ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ ngay mà không cần xem xét đến việc thực hiện hợp đồng giữa hai bên”-Luật sư Hải khuyến cáo.

Tuy nhiên, chứng thư bảo lãnh vô điều kiện đã đảm bảo cho việc được thanh toán đúng, đủ, nhanh gọn của DN chưa? Theo Luật sư Hoàng Văn Hướng, đây mới là điều kiện cần còn nhiều yếu tố khác có thể biến chứng thư bảo lãnh vô điều kiện trở thành có điều kiện. Ví dụ như quy định về thời hạn của bảo lãnh: “bảo lãnh này có giá trị trong thời gian 300 ngày, kể từ ngày xxx”. Vậy ngày đến hạn là ngày nào? 300 ngày là tính ngày làm việc hay chỉ tính ngày nghỉ lễ? Đã có nhiều tranh chấp xảy ra liên quan đến thời hạn của bảo lãnh khi DN thì cho rằng 300 ngày là chỉ tính ngày làm việc còn ngân hàng lại tính cả ngày nghỉ nên ngày hết hạn bảo lãnh mà hai bên tính ra là khác nhau. Do đó, tốt nhất là DN khi nhận bảo lãnh thì đưa luôn ngày đến hạn cụ thể vào chứng thư. Điều này có giá trị không chỉ với bảo lãnh mà còn đúng với trường hợp ký kết hợp đồng khác, khi các bên định ra thời hạn giao hàng, giao tiền… cụ thể để tránh tranh chấp.

Mới đây, Thông tư 28/2012/TT-NHNN ngày 31-3-2012 của Ngân hàng Nhà nước về bảo lãnh ngân hàng được ban hành, với văn bản này ngay cả khi thỏa thuận chính xác, cụ thể thời gian bảo lãnh hết hạn thì vẫn có nguy cơ tranh chấp. Thông tư 28 quy định rằng, khi ngày bảo lãnh hết hạn rơi vào ngày nghỉ thì ngày hết hiệu lực bảo lãnh được tính vào ngày làm việc tiếp theo. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi DN nhưng thực tế từ khối ngân hàng cho thấy, công nghệ của ngân hàng không thể thực hiện được quy định này. Tất cả hợp đồng trong đó có bảo lãnh được các ngân hàng nhập vào phần mềm quản lý và theo dõi trên mạng. Hệ thống công nghệ này không có khả năng theo dõi và quản lý như quy định tại Thông tư 28. Vô hình trung, quy định này có thể tạo thêm cơ hội để ngân hàng từ chối thanh toán bảo lãnh. “Ngay cả khi ngày đến hạn rơi vào ngày nghỉ, DN cũng nên cố gắng thông báo cho ngân hàng tránh nguy cơ bị từ chối thanh toán”-Luật sư Trương Thanh Đức, Đoàn Luật sư Hà Nội khuyến cáo.

Thông tư 28 cũng quy định, chứng thư bảo lãnh phải có đủ 3 chữ ký của người đại diện theo pháp luật, người quản lý rủi ro hoạt động bảo lãnh, người thẩm định khoản bảo lãnh. Như vậy, mặc dù đã có nhiều quy định hỗ trợ DN nhưng với nhiều bài học thực tiễn về các trường hợp ngân hàng từ chối thực hiện nghĩa vụ với lý do ký không đúng thẩm quyền, DN cần nâng cao kỹ năng với chứng thư bảo lãnh, xem xét kỹ các yếu tố như điều kiện, thời hạn, thẩm quyền của người ký kết… trên chứng thư bảo lãnh để có thể nhận được một văn bản giấy tờ thực sự có giá từ ngân hàng.

Theo Thiên Cầm

hangnt

Báo Hải quan

Trở lên trên