MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Kinh tế biển: Chủ quyền, thương hiệu và tiềm năng

Kinh tế thương hiệu của VN (hay kinh tế giá trị mềm) hiện chưa được khai thác đúng tiềm năng, càng chưa được gắn liền và phát triển bền vững với mối quan hệ chủ quyền quốc gia, chủ quyền biển đảo…

Kinh tế định hướng thương hiệu liên quan đến chủ quyền

Trên thế giới, có một quốc gia không có nhiều tài nguyên đất đai, khoáng sản như VN, nhưng đã làm thương hiệu tài nguyên xuất sắc, đó là New Zealand. Đây là một quốc gia biển đảo tiêu biểu mà trong chiến lược định vị quốc gia, họ đã phát triển thương hiệu quốc gia gắn liền với slogan “100% Pure New Zealand”. Nhiều quốc gia khác cũng có định vị thương hiệu quốc gia gắn liền với thương hiệu sản phẩm và thương hiệu DN. Chẳng hạn như nói đến Thụy Sỹ, chúng ta hình dung ngay đến những thương hiệu đồng hồ nổi tiếng cao cấp với kỹ thuật tinh xảo. Người Thụy Sĩ thậm chí còn tự tin khẳng định thương hiệu ở mình tới mức độ sẵn sàng treo giải cao hàng chục chữ số (tính theo giá trị đồng tiền Thụy Sĩ), để dành cho bất kì nghệ nhân nào ngoài quốc gia Thụy Sĩ có cam kết và thực hiện “nhái” và cho ra một sản phẩm y như sản phẩm 100% made in Thụy Sĩ.

Cũng không cần nói đâu xa ngay trong khu vực Asean, VN đang tiêu thụ hàng triệu triệu sản phẩm Made in Japan và cũng chỉ cần là sản phẩm có gắn Made in Japan, thì sản phẩm đó được gia tăng thêm rất nhiều giá trị như Sony, Toshiba... Mỗi địa phương (cấp tỉnh) của Nhật đều có một Brand Mascot (linh vật thương hiệu) riêng và được quảng bá thành công trong du lịch và sản phẩm địa phương. Hollywood, Las Vegas…là những thương hiệu địa danh vang dội của nước Mỹ cấu thành bởi kinh tế mềm và thương hiệu. Rượu Champagne (địa danh nước Pháp) được cả Châu Âu bảo hộ độc quyền…

Đó là một số trong rất nhiều diễn biến kinh tế định hướng thương hiệu (brand oriented economy) hoặc kinh tế thương hiệu đích thực.

Vậy kinh tế thương hiệu có liên quan đến chủ quyền? Câu trả lời là khuynh hướng sử dụng quyền lực mềm trong cạnh tranh kinh tế cũng như chính sách đối ngoại của các nước phát triển phương Tây trong những thập niên gần đây đã và đang ngày càng trở nên phổ biến. Ở góc độ marketing chiến lược chú trọng thiết lập thương hiệu (P4) và hệ thống phân phối (P3) (theo mô hình marketing 7P) mà trong đó việc sẵn sàng từ bỏ các công đoạn sản xuất chi phí lao động rẻ đã và đang chuyển dịch ồ ạt sang các nước thế giới thứ ba và các tập đoàn thương hiệu mạnh tập trung nghiên cứu đột phá sản phẩm, thiết lập thương hiệu mạnh và chuyên nghiệp phân phối, là một trong những khuynh hướng chủ đạo mang lại thành công vững bền cho nhiều DN; song song đó là sự hóa thân của chủ quyền vào quyền lực thương hiệu, theo các DN đa quốc gia đi chinh phục người tiêu dùng khắp thế giới.

Trở lại với câu chuyện kinh tế thương hiệu vàchủ quyềnViệt Nam. Nước ta chỉ có khoảng 350 ngàn cây số vuông đất liền, nhưng có trên 1 triệu km vuông biển đảo và hơn 3000 km bờ biển. Nguồn gốc Biển xa xưa của dân tộc Việt còn lưu truyền qua truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ. Vào thời kỳ “biển lùi” thềm lục địa Nanhailand và Sundaland vùng Đông Nam Á còn là một dải đất kết liền và kéo dài lên ven biển Đông Hải, khi đó những cư dân đầu tiên từ văn hoá Hoà Bình đã làm ra những công cụ sản xuất và nông nghiệp được hình thành…Nói cách khác ngay từ nguyên sơ người Việt xưa đã để lại dấu ấn làm kinh tế thô sơ ban đầu phát xuất từ vị trí địa lí, về sau là nền tảng để chúng ta xây dựng và định hướng thương hiệu kinh tế nông nghiệp – kinh tế biển.

Chủ quyền kinh tế với sản phẩm vật thể và phi vật thể

Về lí thuyết, kinh tế định hướng thương hiệu tương hỗ với yếu tố chủ quyền một cách cơ hữu và rất dễ nhìn thấy.Trong những quy ước của thế giới văn minh, của các định chế toàn cầu như Unesco, Liên hiệp quốc, WTO và gần đây là TPP, hầu hết các quốc gia đều công nhận những Công ước về Bảo vệ quyềnsở hữu trí tuệ; Nhãn hiệu; Nhãn hiệu chứng nhận; Thương hiệu địa phương; Chỉ dẫn địa lý… Những công ước này ở một cấp độ thuần tuý thương mại cho đến ngầm hiểu về quyền sở hữu từ cá nhân cho đến một cộng đồng địa lý và về mặt pháp lý liên quan ngay đến chủ quyền (!).

Tuy nhiên các sự công nhận nêu trên cần có một thực tế sản phẩm làm đối tượng “gắn nhãn”, kể cả hữu hình và vô hình. Cần lưu ý là việc công nhận các di sản của Unesco cũng được xem là bản quyền thương hiệu đối với chủ quyền văn hoá & di sản quốc gia, ví dụ như Tín Ngưỡng Thờ Cúng Vua Hùng (Unesco) cũng là một dạng “chủ quyền” văn hoá phi vật thể vô cùng quý báu. Ngoài ra Di sản Con đường Tơ lụa trên biển cũng có thể là một trong những di sản mà vùng địa lý biển Việt Nam là chủ thể với nhiều bằng chứng còn lưu giữ với cảng thị Cattigara. Cụ thể hơn nữa chúng ta có hàng loạt chứng tích về vùng Biển Đảo Hoàng Sa và Trường Sa cần được bảo vệ và vận động sự công nhận của thế giới trước tiên là về mặt di sản, cùng với đó là chủ uyền thương hiệu Hoàng Sa, Trường Sa được gắn nhãn vào những sản phẩm cụ thể…

Nói riêng về Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta có thể học tập nước Nhật với những chiến lược rất cụ thể đối với chủ quyền & thương hiệu của biển đảo, cụ thể là quần đảo Okinawa- một nơi rất nhạy cảm và xa trung tâm quyền lực. Dù vậy, nền kinh tế biển Okinawa và thương hiệu chủ quyền (bao gồm cả Senkaku) của Nhật đã rất vững mạnh với nhiều nhóm sản phẩm: Hải sản, dược phẩm từ tảo biển, dịch vụ hậu cần quốc tế, du lịch, di sản dưới lòng biển (thềm lục địa Sundaland xa xưa)…

Thương hiệu và Chủ quyền trong kinh tế biển

Ngành Dầu Khí là tiềm năng kinh tế quan trọng bâc nhất của kinh tế biển, đồng thời cũng là điểm nhạy cảm về chủ quyền. Nhờ vào những nhà quản lý, các CEO giỏi và chính sách tích cực, Việt Nam đã có được một ngành dầu khí được đầu tư và quản lý tốt đóng góp hàng chục tỷ USD cho quốc gia mỗi năm. Cho đến nay nhiều dự án đầu tư đã mang lại hiệu quả, cả về khai thác (upstream) lẫn chế biến và hoá dầu (downstream). Tuy nhiên có lẽ điểm nhạy cảm và chưa nhất quán là các quyết sách về hợp tác quốc tế trong đầu tư thăm dò các vùng chủ quyền trên biển, mà nhìn dưới góc độ chủ quyền đó là những điểm nhạy cảm chiến lược trong đó việc chọn lựa đối tác không chỉ mang ý nghĩa kinh tế. Những đông thái tích cực có thể nhìn thấy từ kết quả thăm dò từ Idemitsu và những đề xuất thiện chí và tích cực từ ExxonMobil trong những tháng vừa qua có thể cho giới quan sát những cảm nhận rất tích cực về chiến lược kinh tế biển trong mảng dầu khí.

Các nhà nghiên cứu trong ngành dầu khí có lẽ cũng đã bắt đầu để ý đến một thứ nhiên liệu đó là Băng Cháy (Methane Hydrate) một dạng nguyên liệu hoá thạch hiếm hoi còn chưa được khai thác. Và đây cũng là một trong những tiềm năng quý báu từ thềm lục địa của nước ta cần phải được giữ gìn bảo vệ cho thế hệ tương lai.

Trong một diễn biến từ năm 2013 chúng tôi được có dịp tìm hiểu một số hoạch định và ý tưởng của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu về chiến lược marketing & đầu tư ngành Logistic “hướng biển” một thế mạnh của hệ thống cảng biển quốc tế Vũng Tàu và hệ thống cảng sông liên hoàn dọc sông Sài Gòn.

Với tên gọi Biển Đông - The East Sea (of Vietnam), VN cần xây dựng một chiến lược rõ ràng.

Một thống kê chưa đầy đủ của một số CEO đã chỉ ra tỷ lệ kinh tế hướng biển của Việt Nam chiếm đến 60-70% tổng GDP quốc gia - Một số liệu có lẽ làm giật mình không ít cách nhà hoạch định chính sách. Quan điểm chắc chắn đón nhận sự đồng thuận của DN trong nước cũng như người Việt ở nước ngoài, đó là gắn vấn đề vững mạnh hoá và bảo vệ chủ quyền vào chiến lược kinh tế biển và kiểm soát hợp lý định hướng của đầu tư FDI.

Ngay sau khi sóng biển Đông tạm lắng xuống, chúng ta nhận thấy đã có nhiều những động thái rất tích cực từ phiá cộng đồng DN về tiềm năng Kinh tế Biển Việt Nam. Đó là việc nhiều nhà đầu tư chuyển hướng sang các chuỗi giá trị kinh tế biển. Tổng công ty Tàu thủy tham gia đóng các mnẫu tàu vỏ sắt công suất lớn đưa vào khai thác thử nghiệm và marketing đến với ngư dân. Một công ty Việt Kiều mang công nghệ màng phủ gia cường lực PU (reinforced Polyurethan coating) để nâng cấp độ chịu va đập của hàng vạn tàu vỏ gỗ hiện tại cũng như nâng cấp chất lượng hầm trữ lạnh. Các ngư dân đại gia thì mạnh dạn đầu tư những con tàu dịch vụ nghề cá vươn khơi cùng với đội ngũ tàu đánh bắt xa bờ được trang bị từng bước hiện đại hơn. Tuy nhiên một số ngành, lĩnh vực, thương hiệu như logistic hay thương hiệu “Cá ngừ đại dương xanh” của Việt Nam, rất xứng đáng để khai thác hơn nữa giá trị kinh tế thương hiệu, lại vẫn chưa được quan tâm và đầu tư đúng tầm mức.

Trong một diễn biến khác, các đại gia bất động sản (Bitexco, Tuần Châu…) cùng với một số nhà đầu tư thương hiệu quốc tế (Trawise của Phần Lan) xúc tiến với Tỉnh Quảng Ninh những đề án khai thác tài sản (kinh tế) thương hiệu, cũng thể hiện nhận thức về tăng kinh tế biển Việt Nam cả về mảng kinh tế truyền thống lẫn hiện đại, không chỉ là khai thác tài nguyên mà còn có thể khai thác các giá trị mềm khác nữa…

Có thể nói đã xuất hiện những tín hiệu tích cực đối việc việc xây dựng, phát triển kinh tế thương hiệu gắn liền chủ quyền kinh tế quốc gia.

Thay phần kết: Truyền thông và Du lịch luôn đi truớc1 bước

Từ quan điểm marketing quốc gia và thương hiệu, từ việc quan sát các nước phát triển (Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand…) chúng ta nhận thấy rằng để làm tốt điều này, các quốc gia đã chú trọng chiến lược truyền thông song hành với chính sách, phối hợp từ việc phản biện cho đến quảng bá và kết nối, và nhờ đó tạo ra những hiệu quả bất ngờ. Bên cạnh đó Du lịch cũng đóng vai trò tiên phong trong tất ca các chiến lược kinh tế địa phương, quốc gia và nhất là biển đảo. Đó cũng là cơ hội, ý tưởng kinh doanh mới cho giới DN trẻ, doanh nhân Việt Kiều đóng góp cho đất nước. Điều này đặc biệt càng rất cần được phát huy trong bối cảnh và mức độ quan tâm đối với nền kinh tế và thương hiệu chủ quyền biển đảo Việt Nam ngày càng tăng. Và nó càng có ý nghĩa khi Việt Nam cũng đã và đang ngày càng hội nhập sâu vào thế giới.

>> Kinh tế miền Trung: Làm thế nào để đánh thức “nàng công chúa ngủ trên bãi biển”?

Theo Chuyên gia thương hiệu
Võ Văn Quang

thunm

Diễn đàn doanh nghiệp

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên