MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

TPP: Để bài học cũ từ WTO không lặp lại

Năm 2014, nói đến cơ hội và thách thức của DN Việt Nam khi hội nhập không thể không nhắc đến TPP, một hiệp định mà theo các chuyên gia là sẽ đánh dấu một mốc quan trọng trong hành trang hội nhập với thế giới của VN.

Cơ hội luôn đi cùng thách thức

Việt Nam phải mở cửa mạnh hơn và do vậy, cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Những ngành vốn được bảo hộ nhiều và những doanh nghiệp kém cạnh tranh sẽ phải giảm sản xuất, thậm chí thu nhỏ hoặc phá sản. Giảm thiểu phí tổn điều chỉnh và những rủi ro xã hội trong quá trình hội nhập nói chung và thực hiện TPP (Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương) nói riêng cũng là bài toán Việt Nam cần thực sự quan tâm giải quyết.

Đối với doanh nghiệp, ngành hàng, lợi ích cũng không tự đến. Ngay đối với những ngành hàng được xem có lợi thế khi gia nhập TPP cũng có thể vấp phải không ít rào cản. Ví dụ, dệt may phải đảm bảo nguyên tắc xuất xứ (một tỷ lệ đầu vào kể “từ sợi” phải là từ các thành viên TPP) để được áp thuế suất 0% của nước thành viên nhập khẩu. Hay như đối với hàng thủy sản, vốn thuế suất không còn là rào cản chính, song các biện pháp kiểm dịch SPS có thể lại trở nên ngặt nghèo hơn.

Rủi ro lớn nhất của không hội nhập là không có sự phát triển đi cùng thời đại. Song hội nhập mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải đủ cho phát triển. Hội nhập phải là một bộ phận trong cải cách và chiến lược phát triển, gắn bó hữu cơ với tiến trình cải cách bên trong của đất nước.

Vẫn lơ mơ về TPP?

Một số ví dụ thực tế cho thấy doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất lơ mơ về TPP. Như trường hợp của Nhà máy sản xuất thuốc thú y - thủy sản Mebipha tại Khu công nghiệp Bourbon (Tây Ninh), có quy mô đầu tư nhà máy lên tới 120 tỷ đồng theo chuẩn GMP-WHO, khi được hỏi về những định hướng phát triển của Công ty, bà Lâm Thúy Ái - Phó Tổng giám đốc kỳ vọng Công ty sẽ có thể mở rộng địa bàn kinh doanh ra các nước lân cận.Thế nhưng, kỳ vọng này sẽ gặp trở ngại lớn nếu Công ty không đáp ứng được các tiêu chí của TPP. Bà Ái cũng chưa có thông tin cụ thể về điều này.

Cũng giống như bà Ái, ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Sản xuất - Thương mại May Sài Gòn (Garmex Sài Gòn) cho biết, ông có rất ít thông tin về TPP, dù ông rất quan tâm đến hiệp định này. Doanh thu năm 2012 của Garmex Sài Gòn lên tới 50 triệu USD cho thấy, công ty này gắn với hội nhập như thế nào. Theo ông Hùng, TPP giúp Garmex Sài Gòn có cơ hội cơ cấu lại khách hàng, tìm được khách hàng phù hợp với năng lực. Tuy nhiên, cơ hội để ông tiếp cận thông tin về TPP còn rất hạn chế. Nguyên nhân là, ngoài quy định chung của TPP ra, không ra bất cứ tuyên bố nào sau mỗi vòng đàm phán. Thêm vào đó, giới truyền thông Việt Nam cũng ít được cập nhật những thông tin chính thống.

Đó là chưa kể những thỏa thuận và đàm phán của Việt Nam về vấn đề lao động, sở hữu trí tuệ hay môi trường sẽ tác động mạnh mẽ đến cộng đồng doanh nghiệp trong nước ở mọi ngành nghề khác nhau.
Điều này khiến ông Lương Văn Lý, Trưởng bộ phận Thương mại và Đầu tư của Công ty Luật TNHH Việt Long Thăng (TP. Hồ Chí Minh) e ngại rằng, khi Việt Nam chính thức là thành viên của TPP, không ít doanh nghiệp trong nước có thể phải ngưng hoạt động vì những quy định như vậy.

Nhiều việc cần làm

Tuy vẫn còn nhiều băn khoăn, lo lắng, nhưng ông Diệp Thành Kiệt - Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam nhấn mạnh rằng, doanh nghiệp phải đón nhận TPP, vấn đề là làm thế nào để thấy được cơ hội và thách thức.

“Chính phủ cần phải có những quyết sách quyết liệt và cần người nhạc trưởng tài ba để điều hành việc này. Doanh nghiệp nào hiểu được và nhanh chân tận dụng được cơ hội từ TPP, thì sẽ hưởng lợi lớn”, ông Kiệt nói.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, người có nhiều kinh nghiệm về đàm phán thương mại và tiếp xúc với nhiều doanh nghiệp mong muốn: “Năm 2002, Việt Nam ký Hiệp định Thương mại song phương (BTA) với Mỹ, doanh nghiệp đã tận dụng cơ hội rất tốt. Tuy nhiên, từ khi Việt Nam gia nhập WTO (năm 2007) đến nay, kết quả nhận được lại không khả quan. Tôi mong TPP là cú hích mới như BTA, chứ không như WTO”.

Đối với doanh nghiệp, TPP có lẽ là hiệp định tự do thương mại đầu tiên có riêng một phần về các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành, không ai có thể “khuyên bảo” các doanh nghiệp một cách thật cụ thể cần phải làm gì, vì mỗi ngành nghề, mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng. Chỉ có họ, sau khi tìm hiểu thật kỹ các quy định của TPP, thì mới rút ra được điểm mạnh, điểm yếu của mình để tận dụng cơ hội theo hướng khả thi nhất.

Tận dụng cơ hội cũng tùy thuộc vào việc Việt Nam có vượt qua được những thách thức lớn trong thực thi cam kết. Tác động tổng thể của TPP đối với nền kinh tế Việt Nam có thể rất tích cực, nhưng không có nghĩa đúng với mọi ngành, mọi doanh nghiệp.

Cải cách của Việt Nam hiện nay không còn là tự thân như đầu những năm 1990, mà tương tác mạnh hơn nhiều với tiến trình hội nhập. Trong khi đó, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế chuyển đổi, trình độ phát triển thấp, trong khi khoảng cách giữa đòi hỏi của TPP và năng lực thực tế của Việt Nam không hề nhỏ.

Vì vậy, Việt Nam cần nỗ lực hoàn thiện thể chế kinh tế, pháp lý, chế tài thực thi, để có thể đáp ứng cam kết TPP, mà trước mắt là khôi phục, tạo dựng lòng tin đối với thị trường, đối với các nhà đầu tư.
Các ngành hàng, doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị chu đáo, phải nắm được những cam kết cụ thể liên quan đến ngành hàng, sản phẩm của mình. Doanh nghiệp phải chuyển dần cách thức cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh phi giá, đồng thời phải học cách kết nối. Thiếu kết nối, doanh nghiệp sẽ không thể "chạy" cùng sự dịch chuyển nhanh của các nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh. Đặc biệt, thời điểm này, rất cần thông tin, đối thoại đầy đủ hơn từ các bộ, ngành và Chính phủ về TPP.

Rất có thể, với TPP, chúng ta sẽ "biến cơ hội thành thách thức" nếu các chính sách kinh tế vĩ mô không hướng vào việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, nếu vẫn coi hàng chục nghìn doanh nghiệp giải thể, phá sản trong một năm là "điều bình thường"; nếu thủ tục hành chính vẫn nhiêu khê, phiền hà, nạn tham nhũng vẫn phá tan sự minh bạch cần có trong quản lý doanh nghiệp.

Từ nay đến khi TPP kết thúc đàm phán và tính từ thời điểm chờ quốc hội của 12 nước thành viên TPP phê chuẩn (kéo dài 12 - 18 tháng), không dài để các doanh nghiệp Việt Nam huy động nguồn lực, gia tăng đầu tư vào các khâu có tính quyết định trong việc phát triển lâu dài, bền vững. Vì vậy, tự bản thân các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước cần đặt ra "những việc cần làm ngay" để bài học cũ từ WTO không lặp lại.

cucpth

Theo kinhtevadubao.com.vn

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên