CBRE: Không gian làm việc chung tại Việt Nam có đà tăng trưởng mạnh
Theo CBRE Việt Nam, tính đến tháng 4/2018, ở hai thành phố Hà Nội và TP.HCM có 34 không gian làm việc chung; trong đó, Hà Nội có 19 và Tp. Hồ Chí Minh có 15.
Theo đó, các không gian này do 23 đơn vị điều hành; trong đó, có 2 đơn vị điều hành đến từ nước ngoài. Số lượng không gian làm việc chung tăng lên 62% và ghi nhận tỷ lệ tăng trưởng trung bình 55% trong vòng 5 năm qua.
Dự kiến, đến cuối năm 2018, Hà Nội và TP.HCM sẽ chiếm lần lượt 56% và 44% của tổng nguồn cung 45 không gian làm việc chung.
Bà Dương Thùy Dung, Giám đốc Cấp cao, Trưởng bộ phận Định giá, Nghiên cứu thị trường và Tư vấn phát triển, Công ty CBRE Việt Nam cho biết, các đơn vị điều hành trong nước như Toong, UP, Circo và Dreamplex đều đang mở rộng thị phần mạnh mẽ.
Tuy nhiên, khi thị trường đang phát triển cả về các cơ sở và đơn vị điều hành, các đơn vị nhỏ lẻ với chỉ duy nhất 1 cơ sở cũng đang phát triển nhanh chóng, dự kiến tăng lên từ 30% tổng thị phần của năm ngoái lên đến 42% vào cuối năm 2018 và các đơn vị vận hành lớn chiếm trung bình khoảng 12% thị phần.
Các đơn vị điều hành như NakedHub từ Trung Quốc hay Hive từ Hong Kong (Trung Quốc) đều đang khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường. Hive lên kế hoạch mở thêm một cơ sở nữa ở khu vực trung tâm TP.HCM cuối năm 2018.
Trong khi đó, Nakedhub lên kế hoạch khai trương 2 cơ sở tại TP.HCM và Hà Nội trong quý 2/2018. Các đơn vị điều hành Không gian làm việc chung khác cũng đang tìm kiếm cơ hội gia nhập thị trường Việt Nam trong những năm sắp tới.
Ghi nhận thực tế cho thấy, trước đây, các cơ sở không gian làm việc chung thường không nằm tại các tòa nhà hạng A hoặc vị trí trung tâm, do đơn vị vận hành cần giữ giá thuê ở mức hợp lý. Không gian làm việc chung thường thấy tại các tòa nhà sử dụng dưới hiệu suất ở khu vực ngoài trung tâm. Cả Toong và Up, hai thương hiệu Không gian làm việc chung tại Việt Nam, cũng đặt địa điểm tại các tòa nhà hạng B hoặc thấp hơn.
Ở 2 thành phố lớn nhất nước, không gian làm việc chung có xu hướng tập trung ở các khu vực cận trung tâm thành phố. Ngoài ra tại Hà Nội, một số không gian làm việc chung gần đây chọn địa điểm tại quận Cầu Giấy, là một khu vực tập trung văn phòng và thương mại mới nổi. Không gian làm việc chung tại TP.HCM có xu hướng rải rác khắp thành phố tại các quận ven trung tâm như Quận 1, 2, 3, 4, Bình Thạnh và Phú Nhuận.
Về chi phí thuê, các không gian làm việc chung thường tính giá thuê trên đầu người hoặc trên chỗ ngồi, hơn là trên m2 như cách thuê văn phòng thông thường. Các gói dịch vụ chính bao gồm ghế linh hoạt, ghế cố định, và phòng làm việc riêng. Đối với ghế linh hoạt, tiền thuê được tính theo ngày hoặc theo tháng trong khi các lựa chọn còn lại được áp dụng thuê theo tháng.
Bà Dung thông tin thêm, chi phí thuê không gian làm việc chung rất khác nhau giữa các thành phố. So sánh với một số thành phố trong khu vực, không gian làm việc chung ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh hiện có giá thuê thấp hơn. Ở TP.HCM, một số đơn vị điều hành không gian làm việc chung đã mở rộng vào khu vực trung tâm đầu năm 2018, giá thuê văn phòng làm việc riêng đã tăng lên từ 30 – 50% tại một số cơ sở trong các quận trung tâm.
Theo khảo sát của CBRE, 91% người sử dụng không gian làm việc chung đều là thế hệ Y, những người có độ tuổi dưới 35. Tỷ lệ này cao hơn so với trung bình thế giới là 67%. Con số này cũng phản ánh lượng dân số trẻ của Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực.
Bà Dung cho biết, ở Việt Nam, qua các cuộc khảo sát cho thấy, 54% người sử dụng là người sáng lập hoặc nhân viên của các công ty khởi nghiệp và gần 14% là người làm việc tự do hoặc tự kinh doanh. Các doanh nghiệp khởi nghiệp này bao gồm cả công ty trong nước và nước ngoài. Mặt khác, hơn 55% người sử dụng làm việc trong ngành công nghệ thông tin, phần còn lại phân bố ở các ngành du lịch, tài chính kinh tế, giáo dục, marketing, bất động sản...
Xu hướng thời gian tới, các đơn vị điều hành không gian làm việc chung vẫn đang tiếp tục tìm kiếm mặt bằng, đặc biệt là tại các tòa nhà hạng A cũng như các tòa nhà hạng B cao cấp trong khu vực trung tâm nhằm khẳng định thương hiệu cũng như thị phần của họ ở Việt Nam.
TP.HCM và Hà Nội đều ngang tầm nhau xét về nguồn cầu, khi các đơn vị điều hành đều ghi nhận tỷ lệ lấp đầy trung bình khoảng 75 – 80%. Nguồn cầu cao, cũng như thị trường còn trẻ khi so sánh với các nước khác trong khu vực, tạo nên tiền đề cho các hoạt động mua bán và sát nhập giữa các không gian làm việc chung trong nước và nước ngoài.