Chất lượng tăng trưởng liên tục cải thiện
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam thuộc nhóm cao của khu vực và trên thế giới, chất lượng tăng trưởng cũng tiếp tục được cải thiện, thể hiện qua nhiều chỉ số cụ thể, dù vẫn còn nhiều vấn đề cần lưu ý.
- 05-10-2019Doanh thu phí bảo hiểm tăng trưởng mức cao
- 05-10-2019Lo tăng trưởng giảm tốc, Ấn Độ hạ lãi suất lần thứ 5 liên tiếp trong 2019
- 04-10-2019Bloomberg: Thị trường sữa Trung Quốc tăng trưởng là cơ hội cho Việt Nam
Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vừa tiến hành thẩm tra báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội (KTXH) năm 2019 và dự kiến kế hoạch phát triển KTXH năm 2020.
Báo cáo tại phiên họp toàn thể của Uỷ ban Kinh tế Quốc hội cuối tuần trước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, 2019 là năm thứ 2 liên tiếp ước đạt và vượt toàn bộ 12/12 chỉ tiêu Quốc hội giao, trong đó 5 chỉ tiêu vượt và 7 chỉ tiêu đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Năm 2019, theo báo cáo, quy mô kinh tế mở rộng, đạt khoảng 266,5 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 2.786 USD (năm 2018 là 2.590 USD). Chất lượng tăng trưởng duy trì đà cải thiện. Tốc độ tăng năng suất lao động đạt khá (gần 5,9%), giúp duy trì mức tăng năng suất lao động toàn xã hội bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 5,8%/năm, vượt mục tiêu kế hoạch 5 năm (5,5%/năm).
Tăng trưởng giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác khoáng sản và tăng trưởng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt khá (42,7%), duy trì ở mức trên 40%.
Biểu hiện cụ thể của việc giảm dần phụ thuộc vào khai thác khoáng sản và tăng trưởng tín dụng là tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP theo giá cơ bản giai đoạn 2016-2019 tăng qua từng năm (năm 2016 là 14,3%; năm 2017 là 15,3%; năm 2018 là 16%), trong khi đó, tỷ trọng của nhóm ngành khai khoáng giảm dần (năm 2016 là 8,1%; năm 2017 là 7,5%; năm 2018 là 7,4%).
Tăng trưởng tín dụng được kiểm soát phù hợp với chỉ tiêu định hướng, đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần cải thiện tăng trưởng GDP. Mức tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP năm 2016 lần lượt là 18,25% và 6,21%; năm 2017, là 18,28% và 6,81%; năm 2018 là 13,89% và 7,08%; năm 2019 dự kiến khoảng 14% và 6,8%.
Theo ông Nguyễn Đức Trung, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong số các chỉ tiêu vượt kế hoạch, đáng lưu ý là là tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) dự kiến năm nay chỉ tăng 2,7-3% trong khi đó chỉ tiêu Quốc hội đặt ra là tăng khoảng 4% và xuất siêu ước tính 0,4% trong khi đó mục tiêu Quốc hội đặt ra là nhập siêu dưới 3%.
Kết quả đạt được toàn diện này, theo ông Trung thể hiện sự đúng đắn, phù hợp trong chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả của Chính phủ, các cấp, các ngành. Kết quả phát triển KTXH được các tổ chức quốc tế đánh giá cao, tạo tiền đề vững chắc bước vào năm 2020, năm cuối nhiệm kỳ, phấn đấu thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ Kế hoạch 5 năm 2016-2020.
Năm 2019, tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt 6,8% mặc dù thấp hơn mức tăng trưởng 7,08% của năm 2018 nhưng hoàn thành mục tiêu ở mức cao theo Nghị quyết của Quốc hội (Quốc hội đặt mục tiêu tăng trưởng 6,6-6,8%) đưa Việt Nam thuộc nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của khu vực và trên thế giới.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2019 không chỉ đạt cao mà theo ông Trung, chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải thiện, năng suất lao động đạt khá, mô hình tăng trưởng chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác khoáng sản và tăng trưởng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Với những diễn biến tình hình sản xuất, kinh doanh, đầu tư trong và ngoài nước, xuất khẩu, thị trường trong nước… trong 9 tháng đầu năm rất tích cực và xu hướng tích cực này vẫn tiếp tục trong 3 tháng cuối năm, ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, nhiều khả năng, GDP năm nay không phải tăng 6,8% như dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà có thể tăng tới 7% thậm chí tăng trên 7%; lạm phát được kiểm soát dưới 3%.
“Đây không phải là nhận định riêng của cá nhân tôi mà qua nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm do Ủy ban Kinh tế tổ chức, nhiều chuyên gia cũng đưa ra dự báo khả quan này”, ông Thanh nói thêm.
Còn không ít tồn tại, khó khăn
Cũng như báo cáo tình hình KTXH hằng năm, bên cạnh những kết quả đạt được, báo cáo tình hình KTXH năm 2019 cũng chỉ ra 8 hạn chế, tồn tại, khó khăn, thách thức như kinh tế vĩ mô ổn định nhưng một số yếu tố chưa thực sự vững chắc, nhất là trong bối cảnh chịu ảnh hưởng lớn của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Đầu tư tư nhân tiếp tục cải thiện nhưng đầu tư công gặp khó khăn, tiến độ thực hiện, giải ngân đầu tư công chậm và chưa đồng đều ở các bộ ngành, địa phương…
Trình độ khoa học công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; khả năng chống chịu, thích ứng với tác động bên ngoài tiếp tục được nhắc đến vì những lĩnh vực này vẫn được đánh giá là còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KTXH…
Phiên họp của Ủy ban Kinh tế thẩm tra báo cáo của Chính phủ về tình hình KTXH năm 2019 và dự kiến kế hoạch phát triển KTXH năm 2020 |
Những hạn chế, yếu kém kể trên, theo ông Vũ Hồng Thanh đã giải thích vì sao hiệu quả đầu tư liên tục được cải thiện (chỉ số ICOR giảm dần qua từng năm), năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào GDP mỗi năm một tăng, năng suất lao động được cải thiện, GDP năm nào cũng đứng vào danh sách các nước tăng trưởng cao nhất thế giới nhưng nhận định nền kinh tế vẫn đứng trước nguy cơ tụt hậu chưa bao giờ hết tính thời sự. |
Trước bối cảnh kinh tế thế giới đầy biến động và bất ổn, việc GDP tăng trưởng 6,8%; xuất khẩu ước tăng 7,9%, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, ông Nguyễn Ngọc Bảo đánh giá rất cao nỗ lực của Chính phủ, các bộ ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay điều gì cũng có thể xảy ra, vì vậy, theo ông Bảo không được chủ quan trong 3 tháng còn lại của năm 2019. “Bối cảnh kinh tế thế giới 3 tháng cuối năm đó là tình hình bất ổn tại Trung Đông, quan hệ Mỹ - Iran chưa có lối ra, thương chiến giữa các nền kinh tế lớn diễn biến phức tạp… còn có Brexit không thỏa thuận. Với nền kinh tế mở như Việt Nam, tất cả các yếu tố này tác động không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài… nên phải theo dõi thật chặt chẽ và có kịch bản ứng phó hữu hiệu”, ông Bảo nhấn mạnh.
Theo nhiều chuyên gia, những kết quả đạt về kinh tế - xã hội trong 9 tháng qua là tích cực. Tại một buổi tọa đàm cuối tuần trước, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) Nguyễn Anh Dương lấy dẫn chứng, tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng tăng 6,98%, cao hơn đáng kể so với mục tiêu tăng trưởng cả năm 2019 là 6,8%. Môi trường kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định. Khả năng đạt mục tiêu dưới 4% của Chính phủ tương đối chắc chắn đạt được. Mặt bằng lãi suất tương đối ổn định. Tín dụng tăng trưởng tương đối chậm, tại thời điểm 24/9 tăng 8,64% so với cuối năm 2018 là mức thấp hơn cùng kỳ các năm trước…
Bên cạnh đó, trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ gia tăng và chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc có diễn biến phức tạp, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn có tăng trưởng, cho thấy nền kinh tế đã ứng phó hiệu quả với những bất định từ bên ngoài. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu ước tăng 10% trong quý III và tăng 8,2% trong 9 tháng qua. Về nhập khẩu, mức tăng kim ngạch ổn định, ở mức 8,9% trong quý III và 9 tháng đầu năm. Tính chung trong 9 tháng, Việt Nam ước xuất siêu 5,9 tỷ USD, tương đương 3% kim ngạch xuất khẩu…
Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đi kèm với cải thiện tương xứng về chất lượng tăng trưởng. Chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động còn ở mức thấp. Hiệu quả sử dụng nguồn lực khu vực công còn bất cập, giải ngân vốn đầu tư công trong 9 tháng còn chậm, thấp hơn cùng kỳ năm ngoái. Việc tận dụng lợi ích từ các hiệp định thương mại vẫn là thách thức lớn. Đơn cử với Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), mặc dù thời gian đàm phán và phê chuẩn không ngắn, song những rà soát, chuẩn bị về một số văn bản quy phạm pháp luật còn chậm…
Từ những phân tích trên, đại diện CIEM cho rằng, có nhiều khả năng đạt được hầu hết các mục tiêu đề ra trong năm nay. Trong đó, tăng trưởng GDP cả năm khoảng 7,02%; lạm phát bình quân khoảng 2,78%; tăng trưởng xuất khẩu 8,13%. Năm 2020, mặc dù được dự báo có nhiều khó khăn hơn song tăng trưởng có thể đạt mức 6,7%; lạm phát khoảng 3,17%; tăng trưởng xuất khẩu khoảng 7,6%.
Tuy nhiên, theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế, có một số điểm cần bổ sung, làm rõ. Thứ nhất là động lực tăng trưởng. Thứ hai là nếu xét về phía cầu, xuất khẩu năm nay thấp hơn năm ngoái. Bán lẻ hàng hóa dịch vụ tăng tốt. Nếu loại yếu tố giá, năm nay tăng cao hơn năm ngoái. Về vốn FDI, năm nay đăng ký thấp hơn năm ngoái nhưng vốn nước ngoài tham gia mua cổ phần, góp vốn tăng rất mạnh, trên 80%. “Xu hướng đầu tư nước ngoài đã thay đổi, trước đây đầu tư trực tiếp nhưng nay mua cổ phần góp vốn”, ông Lực lưu ý khi phát biểu cũng tại tọa đàm nói trên.
Liên quan đến lạm phát, ông Lực cho rằng cần mổ xẻ rất kỹ, trong bối cảnh giá điện điều chỉnh tăng thời gian qua. “Nguyên nhân ở đâu khiến lạm phát tích cực, thấp như vậy”, ông Lực nêu vấn đề.
Góp ý thêm về vấn đề đầu tư công và kết cấu hạ tầng, ông Đặng Huy Đông, nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, cần lựa chọn những gì cốt yếu trong 5-10 năm tới. “Theo tôi quan trọng là kết cấu hạ tầng, đường to có trước, đường nhỏ có sau”, ông Đông nói và lý giải, điều này sẽ tạo sự công bằng và giúp cho cả thế hệ mai sau.
Băn khoăn về vấn đề tăng trưởng, PGS.TS. Ngô Trí Long, cho rằng nút thắt của nền kinh tế hiện nay, chủ yếu là do năng suất chất lượng kém, nặng về mặt số lượng mà chưa đi sâu vào chất lượng. "Tôi mong mỏi cơ chế chính sách đi vào thực chất và phải theo nguyên tắc thị trường", ông Long nói
Để đạt được mục tiêu duy trì đà tăng trưởng, theo các chuyên gia, cần tiếp tục ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô để làm nền tảng cho cải cách. Trong đó, phải xây dựng, cập nhật các kịch bản ứng phó với những bất ổn từ bên ngoài; quản lý dòng vốn nước ngoài không cho vào quá ngưỡng hấp thụ của Việt Nam để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành tỷ giá cần thận trọng, linh hoạt hơn. Đồng thời, cần tiếp tục cải cách nền tảng kinh tế vi mô thông qua ban hành kịp thời các hướng dẫn thi hành luật, tránh nợ đọng; cải thiện môi trường kinh doanh; tư duy mở hơn với các vấn đề mới như cách mạng công nghiệp 4.0, kinh tế số…
Nhận định 2020 có nhiều thuận lợi song nội tại nền kinh tế còn khá nhiều vấn đề, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu cho năm sau: GDP tăng khoảng 6,8% so với năm 2019. CPI bình quân tăng dưới 4% so với bình quân năm 2019. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 7% so với năm 2019. Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội chiếm khoảng 33-34% GDP. |
Chính phủ