Công nghiệp điện ảnh Việt sẽ mãi thua trên sân nhà?
Theo Cục Điện ảnh, chỉ có khoảng 10% phim Việt thu hồi được vốn sản xuất, đa số các phim còn lại không thu hồi được vốn, đặc biệt là phim nghệ thuật.
- 15-09-2019Reuters: Tại sao giảm thuế cũng không khiến Thái Lan hấp dẫn hơn Việt Nam?
- 14-09-2019Mitsubishi Motors sẽ lắp ráp xe Xpander tại Việt Nam từ năm 2020
- 11-09-2019Trớ trêu cảng hàng không: Nội Bài, Tân Sơn Nhất chật cứng, Cà Mau, Rạch Giá 1 chuyến mỗi ngày
Hiện nay, phim truyền hình Việt Nam ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm yêu thích của khán giả. Nhiều phim truyền hình Việt Nam hấp dẫn, với dàn diễn viên chất lượng, nội dung đa dạng khiến khán giả Việt theo dõi không bỏ sót tập nào. Nhiều bộ phim truyền hình Việt Nam đã “gây bão” năm 2019 như “Về nhà đi con”, “Nàng dâu order”, “Mê cung”,...
Nhưng bên cạnh sự phát triển của phim truyền hình, là nỗi trăn trở cho phim điện ảnh.
Theo thống kê của Cục Điện ảnh, hiện nay, mỗi năm, điện ảnh Việt Nam sản xuất khoảng trên dưới 40 phim, tăng gấp 2 lần so với năm 2012 (2012: 16 phim, 2018: 37 phim), chiếm khoảng 25 - 30% tổng số phim phát hành trong cả nước. Giá đầu tư trung bình để sản xuất một phim truyện Việt Nam có thời lượng từ 90 đến 100 phút là khoảng từ 12 đến 20 tỷ VND.
Tuy nhiên, bên cạnh những phim điện ảnh mang lại doanh thu tốt như Hai Phượng (200 tỷ VND), Cua lại vợ bầu (191,8 tỷ VND), thì khi phát hành và phổ biến trong mạng lưới rạp chiếu phim, chỉ có khoảng 10% phim thu hồi được vốn sản xuất, đa số các phim còn lại không thu hồi được vốn, đặc biệt là phim nghệ thuật.
Ông Ngô Xuân Hải, Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam nói: "Họ không chiếu phim Việt vào giờ vàng, rồi lại chọn các ngày làm việc từ thứ 2 đến thứ 5 để chiếu phim, rồi họ quy chụp rằng phim Việt không thể thu hút được khán giả, chỉ chiếu vài suất rồi dừng".
Đối với công nghiệp rạp chiếu phim, đơn cử như Hàn Quốc thì 2 đơn vị phát hành hàng đầu của nước này đều là đơn vị trong nước (CGV, Lotte), chiếm tới 90% thị trường phát hành phim. Một số nước lân cận trong khu vực như: Thái Lan, Indonesia, Maylaysia… tỷ lệ hệ thống cụm rạp nội địa cũng áp đảo (trên 70%) so với cụm rạp nước ngoài. Trong khi đó con số hệ thống rạp chiếu nội địa ở Việt Nam chỉ chiếm khoảng 20%.
Về phương diện luật, theo Quyền Cục trưởng Cục Điện ảnh, TS. Nguyễn Thị Thu Hà, sau 12 năm triển khai và thi hành Luật Điện ảnh, Luật đã bộc lộ nhiều bất cập, nhiều quy định chưa phù hợp với điều kiện thực tế, khó thực thi, chưa thể hiện đầy đủ tính chất đặc thù của hoạt động điện ảnh.
Quy định về đấu thầu sản xuất phim có sử dụng ngân sách Nhà nước không khả thi vì chủ đầu tư không có đủ cơ sở để tổ chức đấu thầu lựa chọn cơ sở sản xuất thực hiện dự án sản xuất phim.
Luật Điện ảnh cũng chưa theo kịp những tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất, phát hành và phổ biến phim. Công nghiệp điện ảnh thế giới đã chuyển đổi hoàn toàn sang công nghệ số hóa thì một số quy định của Luật Điện ảnh vẫn đang theo công nghệ 35mm hoặc video (Betacam hoặc VHS).
Điều này dẫn đến tình trạng không phân biệt rõ sản phẩm nghe nhìn nào được xem là một tác phẩm điện ảnh hoặc không phải là tác phẩm điện ảnh. Hơn nữa còn chưa phân định rõ trách nhiệm quản lý việc phát hành và phổ biến phim trong môi trường số hóa, trên internet, phổ biến phim online và các phương tiện truyền thông khác.
Chính sách tài trợ cho việc phổ biến phim phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, thiếu nhi, phục vụ nhiệm vụ chính trị trên thực tế chưa được thực hiện triệt để do chưa có nguồn kinh phí.
Chính sách về dành quỹ đất xây dựng rạp chiếu phim trong quá trình quy hoạch đô thị chưa được thực hiện, trong khi đó nhiều rạp chiếu phim của các cơ sở điện ảnh tại các địa phương bị sáp nhập hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng.
Làm gì để cứu phim Việt?
TS. Ngô Phương Lan - nguyên Cục trưởng Cục Điện ảnh cho biết, cần xem lại việc phát triển ồ ạt của các hãng phim tư nhân. Bởi lẽ, đến cuối năm 2018 thì số lượng các hãng phim đã lên tới 500 hãng. Tuy nhiên trên thực tế thì chỉ có khoảng 20-30 hãng duy trì hoạt động sản xuất phim đều đặn, khoảng chục hãng sản xuất được 2-3 phim, còn lại 450 hãng không hề có phim.
Bà Ngô Phương Lan cũng cho rằng, đề xuất bỏ quy định doanh nghiệp muốn nhập khẩu phim phải có rạp chiếu phim là rất quan trọng và cần phải tính đến phương án phát triển rạp chiếu của các công ty, đơn vị trong nước. Để làm được điều này, theo TS. Ngô Phương Lan, cần quan tâm đến việc ứng xử với các nhà đầu tư nội trong việc xây dựng rạp chiếu trong nước.
Ông Ngô Xuân Hải kiến nghị, Luật Điện ảnh sửa đổi cần quy định tỉ lệ phim Việt chiếu rạp một cách cụ thể, rõ ràng hơn, thậm chí quy định cả thời gian.
Rõ ràng, thực tế đòi hỏi phải có cơ chế ưu đãi cho phim Việt để chúng ta không thua ngay trên sân nhà. Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch sẽ tổng hợp các ý kiến để hoàn thiện Đề nghị xây dựng Luật Điện ảnh (sửa đổi) trình Chính phủ trong năm nay.