Đại tướng Lê Đức Anh và những kỷ niệm thời bom đạn ác liệt
“Nhiều lúc bom đạn ác liệt quá, tôi từng nói vui với anh em: “Bom đạn đầy trời thế này, chết là chuyện thường, còn sống thì mới kỳ lạ!”. Bởi vậy, cú chết hụt ở giờ phút cuối cùng, khi mà chiến tranh sắp kết thúc thì tôi không thể nào quên được”.
- 23-04-2019Infographic: Cuộc đời và sự nghiệp nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh
- 22-04-2019Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh qua đời ở tuổi 99
Chiến tranh là thử thách cao nhất, nghiệt ngã nhất
Trong cuộc họp đông đủ Trung ương Cục, Quân ủy Miền và Bộ Tư lệnh B2, anh Thọ nhắc lại tinh thần điện ngày 1 tháng 4 của anh Lê Duẩn và phổ biến quyết định của Bộ Chính trị về việc thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định, gồm có: Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, anh Phạm Hùng làm Chính ủy, Thượng tướng Trần Văn Trà, tôi - Trung tướng Lê Đức Anh làm Phó Tư lệnh. Riêng tôi lại kiêm phụ trách chỉ huy cánh quân phía tây - tây nam Sài Gòn.
Ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta toàn thắng.
Ngày 30/4 và 1/5, chúng tôi ở sở chỉ huy cánh Tây - Tây Nam tại một địa điểm phía nam huyện Đức Hòa, Long An. Khi nghe các nơi báo cáo: "Xong rồi!", trong cơ thể có một cảm giác nhẹ nhõm, thoải mái biết bao! Và, lúc bấy giờ mới thấy thấm mệt, có thể nói mệt rã rời sau bao ngày đêm toàn bộ cơ thể luôn căng ra như dây đàn. Tối hôm đó, khi anh Phạm Hùng và anh Văn Tiến Dũng cho người xuống gọi tôi lên họp, tôi nói, giờ cho tôi ngủ chút đã mệt quá! Và tôi đã ngủ một giấc tới 9 giờ sáng.
Trên đời này, ai vừa trải qua những thử thách nghiệt ngã, những ngày tháng căng thẳng, thì hẳn sẽ hiểu và cảm thông cho giấc ngủ ngon lành, không gì cưỡng nổi của những người lính chúng tôi ngay khi vừa kết thúc cuộc chiến tranh.
Đời tôi đã đi suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng đất nước. Biết bao kỷ niệm sâu sắc tưởng chừng không thể quên. Chiến tranh là thử thách cao nhất, nghiệt ngã nhất đối với con người. Nhiều lúc bom đạn ác liệt quá, tôi từng nói vui với anh em: “Bom đạn đầy trời thế này, chết là chuyện thường, còn sống thì mới kỳ lạ!”. Bởi vậy, cú chết hụt ở giờ phút cuối cùng, khi mà chiến tranh sắp kết thúc thì tôi không thể nào quên được.
Sở chỉ huy của cánh quân hướng tây - tây nam nằm ngay bên bờ sông Vàm Cỏ thuộc huyện Đức Hòa. Suốt ngày đêm, tôi vẫn trụ trong cái chòi nhỏ sát mép sông. Sáng hôm đó, tôi vào ăn cơm, chỗ ăn là nhà họp của địa phương, làm nửa chìm nửa nổi, Chính ủy Hai Tưởng đặt vị trí ở đây; vừa ăn xong tự nhiên anh Tưởng bảo tôi: "Anh hãy nán lại, nằm trên võng của tôi mà thở, nghỉ mươi phút rồi hẵng ra đó!".
Tôi nghe anh, vừa ngả lưng, thì ở ngoài chòi của tôi một quả bom từ máy bay địch ném trúng, cái chòi bay mất, cậu lái xe của tôi hy sinh, cậu Thái bảo vệ bị thương. Nếu hôm đó ăn xong, tôi ra liền thì nhất định "cái chuyện thường" đã xảy ra với tôi và hôm nay, chẳng còn ngồi để mà viết ra những dòng chữ này! Chiến tranh có chừa ai, cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên nhiều khi không thể mang "tính quy luật ra mà giải thích"!
Hiệp đồng chặt chẽ
Nếu nói tới chiến thắng 30/4/1975 mà chỉ nói về năm cánh quân trên năm hướng tiến công, tức là chỉ nói về các "quả đấm chủ lực" thì không đủ mà phải thấy đây thực sự là một cuộc "Tổng tiến công và nổi dậy" toàn thắng. "Quả đấm chủ lực" - những binh đoàn cơ động là lực lượng nòng cốt của đấu tranh quân sự, với những đòn "điểm huyệt" đã đánh trúng, đánh hiểm ở những trận then chốt và then chốt quyết định.
Nhưng để giải quyết đồng loạt, rộng khắp, kịp thời làm cho cả bộ máy chính quyền và đội ngũ quân địch tan rã thì phải thấy rõ vai trò tiến công và nổi dậy của lực lượng tại chỗ, của lực lượng chính trị quần chúng, trong đó có lực lượng của những người bị bắt buộc ở trong hàng ngũ của địch.
Lực lượng tại chỗ tạo điều kiện cho các mũi tiến công của chủ lực cơ động. Ngược lại, "quả đấm chủ lực" tạo điều kiện cho lực lượng tại chỗ nhất loạt tiến công có hiệu quả. Phải thấy rõ vai trò lãnh đạo nhạy bén, kịp thời, thống nhất của khu ủy, tỉnh ủy và đảng ủy các cấp cơ sở trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh của quần chúng đã phát triển thành ba lực lượng: lực lượng vũ trang cách mạng; lực lượng chính trị, cơ sở cách mạng trong lòng địch, lực lượng quần chúng; lực lượng quần chúng bị bắt buộc.
Cả ba lực lượng này chuyển hóa vào từng con người một. Nhưng với sự lãnh đạo tài tình, thấm đẫm tính nhân văn của Đảng ta, đã tạo ra động lực thúc đẩy để các lực lượng này có cơ hội bộc lộ và phát huy khả năng tạo nên sức mạnh, hiệu quả góp phần vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy thần tốc, đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương Cục là: "xã giải phóng xã", "huyện giải phóng huyện", "tỉnh giải phóng tỉnh".
Các lực lượng của cách mạng đã hiệp đồng chặt chẽ, kết hợp và cộng hưởng tạo nên sức mạnh to lớn "đánh bật quân xâm lược Mỹ" rồi làm tan rã và quật đổ chính quyền tay sai, dù chúng có một bộ máy đồ sộ, với 1,1 triệu quân được trang bị hiện đại, dưới sự bảo trợ của quan thầy ngoại bang.
Đối với dân tộc ta, đây là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử. Nó kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm kháng chiến, cứu nước, giải phóng miền Nam, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Nó trực tiếp góp phần to lớn với cách mạng Lào và Campuchia cùng hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ trong năm 1975.
Lược ghi theo Tư liệu Văn kiện Đảng/ Đại tướng Lê Đức Anh – Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng.
Tiền Phong