MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Đánh giá nhanh tác động của Thông tư 02 và 03 ngày 23/4/2023 của NHNN

25-04-2023 - 07:45 AM | Tài chính - ngân hàng

Đánh giá nhanh tác động của Thông tư 02 và 03 ngày 23/4/2023 của NHNN

Theo TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện ĐT&NC BIDV, Thông tư 02 và 03 là những quyết sách mạnh, được doanh nghiệp, người dân và TCTD kỳ vọng với một số tác động chính như: giúp ngăn gia tăng nợ xấu nội bảng, tăng khả năng tiếp cận vốn của DN, của bên vay, hỗ trợ thanh khoản, khó khăn của thị trường TPDN qua đó góp phần tháo gỡ khó khăn về dòng tiền, dòng vốn cho DN, người dân, duy trì SXKD, đầu tư, tiêu dùng, tạo dòng tiền mới...

  • Ở kịch bản cơ sở, GDP Việt Nam năm nay sẽ tăng 5,5-6%. Ở kịch bản tích cực hơn, tăng trưởng cả năm có khả năng đạt 6-6,5%.
  • Phân chia theo khẩu vị rủi ro từ thấp tới cao, kênh tiền gửi tiết kiệm và vàng vẫn được coi là an toàn, nhất là kênh gửi tiết kiệm vẫn hấp dẫn đối với nhiều NĐT trong bối cảnh lãi suất huy động được dự báo sẽ duy trì ở mức cao trong năm 2023.

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV vừa có báo cáo    Đánh giá nhanh tác động của Thông tư 02 và 03 ngày 23/4/2023 của NHNN.

Theo nhóm tác giả, Thông tư 02 và Thông tư 03 được ban hành kịp thời ngay sau khi có chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết 50/NQ-CP ngày 8/4/2023 và Nghị quyết 59/NQ-CP ngày 23/4/2023.

Mục đích của 2 chính sách này là nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp về nợ cơ cấu lại và trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), qua đó góp phần hỗ trợ phục hồi, tiếp tục duy trì sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng, qua đó hỗ trợ phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2023 và tiếp theo trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức, tác động tiêu cực đến người dân, DN, xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng và nền kinh tế.

Các chính sách cụ thể: Thông tư 02 cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) chủ động cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ với một số điều kiện cụ thể với thời hạn một năm kể từ ngày được cơ cấu lại nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn về tài chính, vốn hiện nay, trên cơ sở đánh giá thực trạng khách hàng, khả năng trả nợ, năng lực tài chính của TCTD, qua đó giúp bên vay vượt qua khó khăn, thách thức để tiếp tục SXKD, đầu tư và tiêu dùng …; việc này được thực hiện từ nay đến hết tháng 6/2024. Thông tư 03 cho phép nới một số điều kiện đầu tư, cho vay, mua lại TPDN với một số điều kiện cụ thể, thực hiện từ nay đến hết năm 2023; qua đó góp phần gia tăng thanh khoản, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển thị trường TPDN trong tình hình khó khăn hiện nay.

Đánh giá tác động sơ bộ:

Đối với doanh nghiệp, bên vay: Thông tư 02 giúp các doanh nghiệp, bên vay (gồm cả vay tiêu dùng) giảm áp lực tài chính, áp lực trả nợ và nợ xấu khi được cơ cấu lại và không phải chuyển nhóm nợ, đồng thời tiếp tục được tiếp cận vốn vay mới (do được giữ nguyên nhóm nợ), giúp doanh nghiệp, bên vay có nguồn vốn duy trì SXKD, đầu tư, tiêu dùng, qua đó góp phần phục hồi và phát triển KTXH năm 2023 và tiếp theo. Điều kiện áp dụng ở đây là doanh nghiệp, bên vay cần có đề nghị, có phương án trả nợ khả thi và làm ăn tuân thủ pháp luật.

Thông tư 03, hiệu lực từ nay đến hết ngày 31/12/2023, cho phép các TCTD được mua lại TPDN đã bán trước đó (mà không cần chờ sau 1 năm như qui định cũ). Điều khoản này sẽ hỗ trợ các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp phát hành TPDN có dòng tiền để xử lý một phần lượng TPDN đáo hạn trong năm 2023 (tập trung vào Quý 2 và Quý 4), qua đó DN có thể dùng nguồn vốn đang có để duy trì SXKD, đầu tư, tiêu dùng, vượt qua khó khăn, góp phần phục hồi và phát triển KTXH. Điều kiện ở đây là: DN phải ở mức xếp hạng tín dụng nội bộ cao nhất của TCTD (tức là có hình hình tài chính và SXKD khá lành mạnh) và tùy thuộc vào đánh giá, khẩu vị rủi ro và năng lực tài chính của các TCTD. Như vậy, có thể thấy lượng TPDN được mua lại sẽ không nhiều . Đối với doanh nghiệp phát hành kém hơn, ở các nhóm xếp hạng dưới, sẽ phải tiếp tục triển khai các giải pháp như đã nêu trong Nghị định 08/NĐ-CP ngày 5/3/2023 và Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/3/2023…v.v.

Đối với các TCTD: Thông tư 03 cho phép các TCTD cơ cấu lại nợ, không chuyển nhóm nợ đối với một số DN, bên vay với điều kiện và thời hạn nêu trên, qua đó góp phần giảm một phần áp lực nợ xấu và duy trì cho vay đối với DN, bên vay được cơ cấu lại. Đồng thời, nhằm đảm bảo đánh giá sát tình hình nợ và có nguồn lực xử lý nợ xấu (nếu xảy ra), các TCTD vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng bổ sung theo lộ trình (50% năm 2023 và đủ 100% đến hết năm 2024), có phần bớt áp lực trích lập DPRR. Tuy nhiên, như khi thực hiện các Thông tư về cơ cấu lại nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 giai đoạn 2020-2021, nhiều TCTD sẽ chủ động đánh giá nợ, trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro từ trước và hiện nay mức độ bao phủ nợ xấu của hệ thống TCTD khá tốt (125% nợ xấu). Dự báo mức độ tác động đến chất lượng tín dụng và lợi nhuận của các TCTD là không quá lớn, trong tầm kiểm soát . Hiện nay, các TCTD đang tích cực đánh giá phạm vi cơ cấu lại nợ sơ bộ để có phương án phù hợp. Điểm khác biệt lớn là lần này nợ cơ cấu lại bao gồm cả các khoản vay tiêu dùng, nên qui mô cơ cấu lại có thể lớn hơn giại đoạn dịch Covid-19.

Đối với an toàn hệ thống tài chính – tín dụng: có thể nói đây là những quyết sách mạnh, được doanh nghiệp, người dân và TCTD kỳ vọng với một số tác động chính như: giúp ngăn gia tăng nợ xấu nội bảng của các TCTD, tăng khả năng tiếp cận vốn của DN, của bên vay, hỗ trợ thanh khoản, khó khăn của thị trường TPDN trong năm 2023 và đến giữa năm 2024, qua đó góp phần tháo gỡ khó khăn về dòng tiền, dòng vốn cho DN, người dân, duy trì SXKD, đầu tư, tiêu dùng, tạo dòng tiền mới để trả nợ đáo hạn và mở rộng SXKD sau này. Tuy nhiên, cần lưu ý là, vì hai Thông tư chỉ có hiệu lực áp dụng đến hết năm 2023 (Thông tư 03) hay đến giữa năm 2024 (Thông tư 02), còn sau đó sẽ tùy thuộc khá nhiều vào khả năng phục hồi, duy trì và phát triển SXKD của DN, bên vay. Khi đó, sẽ phụ thuộc vào tình hình môi trường kinh doanh bên ngoài cũng như sự vận động, linh hoạt, thích ứng, SXKD hiệu quả của mỗi DN, bên vay được cơ cấu lại hay được mua lại TPDN…v.v. Bằng không, rủi ro nợ xấu có thể tăng lên sau đó, ảnh hưởng tiêu cực đến cả DN, bên vay và TCTD. Chính vì vậy, đòi hỏi các bên liên quan thiện chí, nỗ lực, quyết tâm thực hiện một số kiến nghị dưới đây.

Sáu kiến nghị:

Một là, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục quyết tâm, nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cùng với việc tiếp tục bám sát tình hình; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế để có kịch bản ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (nhất là thị trường tài chính, bất động sản) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư và người dân. Các trung tâm kinh tế như TP.HCM, Hà Nội…cần phát huy tốt hơn vai trò đầu tàu, lan tỏa và kết nối của mình.

Hai là, quyết tâm đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi và giải ngân đầu tư công; tiếp tục chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, vừa hỗ trợ giải tỏa vốn ngân sách tồn đọng, nợ đọng giữa các DN với nhau, vừa góp phần phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng năm 2023 và lâu dài.

B a là, nâng cao hơn nữa hiệu quả trong phối hợp chính sách (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm đảm bảo thực hiện tốt các cân bằng: giữa kiểm soát lạm phát và tăng trưởng, giữa cân đối ngân sách và hỗ trợ doanh nghiệp, người dân. Chính sách tài khóa tiếp tục là chủ đạo, với cách tiếp cận là mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, đúng chỗ, đúng lúc (nhất là các chính sách giãn, hoãn, giảm thuế, phí, tiền thuê đất, thuế VAT…) mới đảm bảo cùng trợ lực cho DN, người dân và giúp chính sách tiền tệ phát huy hiệu quả tốt hơn. Chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, nới lỏng phù hợp, vừa giảm lãi suất hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng, vừa giữ lạm phát trong tầm kiểm soát.

Bốn là, NHNN và Bộ Tài chính cần theo dõi, đôn đốc, giám sát thực hiện và kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai, thực hiện.

Năm là, TCTD sớm có hướng dẫn nội bộ, chủ động đánh giá, theo dõi, trích lập DPRR, kiểm tra giám sát đảm bảo thực hiện đúng, giảm thiểu trục lợi, hướng dẫn và phối hợp truyền thông, triển khai thành công. Đồng thời, DN, bên vay cần nắm rõ phạm vi, đối tượng và điều kiện cơ cấu lại, điều kiện TPDN được mua lại, thiện chí phối hợp với các TCTD, các DN phát hành để hoàn thiện hồ sơ theo qui định.

Cuối cùng là , Bộ Tài chính cần sớm có điều chỉnh điều kiện phát hành TPDN ra công chúng phù hợp hơn, phê duyệt nhanh hơn, nhằm khuyến khích các DN phát hành ra kênh này nhiều hơn, cùng với việc hoàn thiện chính sách phát triển thị trường TPDN lành mạnh, an toàn, hiệu quả, giảm áp lực vốn trung dài hạn đối với hệ thống ngân hàng.

H. Kim (Ghi theo báo cáo của Nhóm tác giả)

Nhịp sống thị trường

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên