Hai giờ của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Đại học Harvard
Tiếp tục chuyến thăm và làm việc tại Hoa Kỳ, chiều 14/5 (giờ địa phương, sáng 15/5 giờ Việt Nam), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã dành gần 2 giờ đồng hồ thăm, phát biểu và dự tọa đàm chính sách tại Đại học Harvard, thành phố Cambridge, bang Massachusetts.
- 21-04-2022Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhận lời Tổng thống Mỹ Joe Biden tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN-Hoa Kỳ
- 26-03-2022Thủ tướng Phạm Minh Chính đến ĐH Công nghệ Giao thông vận tải cơ sở Vĩnh Phúc: 'Các bạn là động lực đưa nước ta sánh vai cùng các cường quốc'
- 21-03-2022Thủ tướng Phạm Minh Chính đón, hội đàm với Thủ tướng Malaysia
Hơn 30 phút trước thời điểm Thủ tướng Phạm Minh Chính đến trường Harvard, khán phòng nhà trường đã kín những học giả, sinh viên, đặc biệt là sự xuất hiện của các giáo sư đầu ngành trong trường như: GS Kinh tế David Dapice, GS Y khoa David Golan, một số nhà khoa học từ Việt Nam như TS Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên cứu của Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright tại TPHCM, đồng thời là Nhà nghiên cứu cao cấp tại trường Quản lý Nhà nước Harvard Kennedy, TS Nguyễn Xuân Thành, cán bộ nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Ash về Quản trị dân chủ và đổi mới, Đại học Harvard, PGS TS Nguyễn Lân Hiếu, Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đi thăm khuôn viên Đại học Harvard
Chào đón Thủ tướng Phạm Minh Chính tại khán phòng Đại học Harvard là những tràng pháo tay dài. Phát biểu tại sự kiện này, Giáo sư Thomas J. Vallely, Giám đốc Chương trình Việt Nam, Trường Harvard Kennedy, cho biết trong số 12 thành viên đoàn đại biểu Việt Nam tham gia chuyến công tác lần này, có một số Bộ trưởng từng tham gia khoá học tại Harvard. Đó là Bộ trưởng Công an Tô Lâm, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng TN&MT Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng.
Harvard đã thực hiện đối thoại chính sách với phía Việt Nam trong 3 thập kỷ vừa qua, chú trọng vào việc góp phần giải quyết những thách thức lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt trong từng giai đoạn. Nhấn mạnh những thách thức mới mà Việt Nam phải đối mặt trong giai đoạn phát triển mới, Giáo sư cho biết các cử tọa rất muốn lắng nghe các quan điểm của Thủ tướng Phạm Minh Chính.
Hiệu trưởng Trường Chính sách công Kennedy, Đại học Harvard, ông Douglas Elmendorf cũng bày tỏ mong muốn lắng nghe các phát biểu của Thủ tướng về triết lý, tầm nhìn và chiến lược phát triển của Việt Nam. Vị Hiệu trưởng cũng nhắc lại những kinh nghiệm rất thành công của Thủ tướng trong điều hành tỉnh Quảng Ninh trước khi trở thành lãnh đạo ở Trung ương.
ASEAN- Hoa Kỳ như cô gái đẹp và chàng trai giàu có, khoẻ mạnh
Trao đổi với giới học giả và các sinh viên Harvard, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, 3 ngày vừa qua thăm và làm việc tại Hoa Kỳ, dự Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN - Hoa Kỳ, Thủ tướng đã gặp các nhà lãnh đạo cao nhất của nước Mỹ với nhiều cuộc thảo luận thẳng thắn, cởi mở, trên tinh thần trách nhiệm, chân thành. Nói về mối quan hệ ASEAN - Hoa Kỳ, Thủ tướng ví, ASEAN rất năng động như là một cô gái đẹp, còn nước Mỹ rất giàu có, là một chàng trai khoẻ mạnh. Một cô gái đẹp và chàng trai khoẻ mạnh, giàu có tìm hiểu, gắn kết với nhau là điều hai bên đều mong muốn phát triển mối quan hệ này.
Về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ , Thủ tướng bày tỏ "mối lương duyên có lúc thăng trầm có lúc đột phá. Như món ăn có đủ vị chua, cay, mặn, ngọt, nhưng mang lại một bữa ăn ngon". 27 năm từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay, quan hệ giữa hai nước đang có bước phát triển, đã có 4 vị Tổng thống Hoa Kỳ liên tiếp đến thăm Việt Nam và để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân hai nước. Vào thời điểm khó khăn của đỉnh dịch COVID-19 năm 2021, Phó Tổng thống Kamala Harris đã tới thăm Việt Nam. Tháng 11/2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thống Joe Biden đã gặp nhau tại Hội nghị COP 26 tại Anh.
Thủ tướng ví, ASEAN rất năng động như là một cô gái đẹp, còn nước Mỹ rất giàu có, là một chàng trai khoẻ mạnh. Một cô gái đẹp và chàng trai khoẻ mạnh, giàu có tìm hiểu, gắn kết với nhau là điều hai bên đều mong muốn phát triển mối quan hệ này. |
Trong quan hệ hai nước, lĩnh vực thương mại đóng vai trò rất quan trọng. Năm 2021, kim ngạch thương mại Hoa Kỳ-ASEAN đạt 362 tỷ USD thì kim ngạch giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đạt 112 tỷ USD, chiếm gần 1/3. |
Việt Nam và Hoa Kỳ đã vượt qua được những khác biệt và đạt được những nguyên tắc nền tảng cho quan hệ hai nước, như đã được khẳng định trong Tuyên bố về Tầm nhìn chung Việt Nam - Hoa Kỳ khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ vào năm 2015, trong đó nhấn mạnh tôn trọng "thể chế chính trị, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau". Việt Nam đánh giá cao trong những năm qua Hoa Kỳ luôn ủng hộ một Việt Nam hùng mạnh, độc lập và thịnh vượng.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng
Chia sẻ về quan điểm phát triển kinh tế của Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thế giới hiện nay.
Trong đó, Việt Nam khẳng định chủ trương nhất quán là kiên định đường lối đổi mới, mở cửa, chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả với bên ngoài. Đường lối đổi mới dựa trên 3 trụ cột gồm: Xóa quan liêu bao cấp, thực hiện đa sở hữu và hội nhập. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của các doanh nghiệp, đối tác đầu tư, kinh doanh lâu dài, hiệu quả, bền vững trên nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro và tuân thủ pháp luật.
Nhờ đường lối đổi mới, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, từ một nền kinh tế kém phát triển, sau hơn 35 năm đổi mới Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".
Quy mô nền kinh tế không ngừng được mở rộng, năm 2021 đạt trên 362 tỷ USD (so với 4,2 tỷ USD năm 1986); GDP bình quân đầu người đạt gần 3.700 USD, tăng khoảng 26 lần so với năm 1990 (142 USD).
Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN; một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; là nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản đứng đầu thế giới; có mạng lưới 15 hiệp định thương mại tự do (FTAs) đã có hiệu lực. An sinh xã hội và đời sống nhân dân được cải thiện, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm.
Thủ tướng cho rằng, xây dựng một nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập sâu rộng với bên ngoài là hai phạm trù tưởng như mâu thuẫn nhưng lại gắn kết với nhau, như một cặp phạm trù trong triết học |
Thủ tướng cho rằng, xây dựng một nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập sâu rộng với bên ngoài là hai phạm trù tưởng như mâu thuẫn nhưng lại gắn kết với nhau, như một cặp phạm trù trong triết học. |
Phân tích để làm rõ hơn điều này, Thủ tướng cho rằng, thời gian gần đây, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, khó đoán định trên nhiều phương diện như cạnh tranh chiến lược, xung đột diễn ra gay gắt; rủi ro tài chính, tiền tệ quốc tế và đứt gãy chuỗi cung ứng gia tăng; phản ứng với mặt trái của toàn cầu hóa, các vấn đề về an ninh truyền thống và phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, già hóa dân số, cạn kiệt tài nguyên, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng, an ninh con người…
Bối cảnh đó đòi hỏi các nước phải chú trọng hơn đến xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giảm thiểu tác động trước những cú sốc từ bên ngoài trong quá trình hội nhập; trong đó, khẳng định xu hướng độc lập, tự chủ không có nghĩa là đóng cửa, tự cung, tự cấp mà gắn liền với chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế.
Xu hướng chung và mong muốn của hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển là hướng tới xây dựng nền tảng kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh, đẩy mạnh công nghiệp hóa gắn với hội nhập quốc tế nhằm vươn lên thoát khỏi "bẫy thu nhập trung bình", trở thành nước phát triển.
Thực tiễn cho thấy, để thành công, mỗi nước đều cần cách làm, lộ trình, bước đi phù hợp gắn với đặc điểm, điều kiện cụ thể; nhưng cần đặc biệt lưu ý một số yêu cầu mang tính phổ quát. Theo đó, độc lập, tự chủ về kinh tế gắn liền với độc lập, tự chủ về chính trị, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việc tôn trọng sự khác biệt về điều kiện, đặc điểm chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hóa, xã hội sẽ góp phần tạo ra sự đa dạng, phong phú của kinh tế toàn cầu và lợi thế quốc gia. Cùng với đó, phải tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng các quốc gia dựa trên Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.
Phân tích thêm về sự cần thiết phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng ở Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, đây là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới đã dành cả đời mình phấn đấu cho nền độc lập dân tộc của Việt Nam với tinh thần "không có gì quý hơn độc lập, tự do" gắn liền với "mở cửa và hợp tác" quốc tế.
Thủ tướng nêu dẫn chứng, trong Lời kêu gọi Liên Hợp Quốc (tháng 12/1946), Người đã nêu rõ: "Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực".
Thủ tướng khẳng định, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng là chủ trương nhất quán, kiên định, xuyên suốt của Việt Nam từ khi giành được độc lập dân tộc năm 1945, đặc biệt trong 35 năm đổi mới, nhất là từ đầu những năm 1990 khi Chiến tranh lạnh kết thúc và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Việt Nam vừa hội nhập sâu rộng, vừa nỗ lực vươn lên, nâng cao năng lực nội tại, ứng phó linh hoạt, hiệu quả với các cú sốc từ bên ngoài như: khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, đại dịch COVID-19 từ 2020 đến nay.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng xuất phát từ 3 lý do chủ yếu.
Một là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng chính là để góp phần giải quyết những vấn đề lớn đặt ra đối với Việt Nam.
Hai là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một trong những yếu tố then chốt để bảo đảm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia. Đây là tất yếu khách quan của việc mở cửa, hội nhập quốc tế.
Ba là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ giúp nâng cao thực lực, tiềm lực cho hội nhập sâu rộng, hiệu quả trong hệ thống kinh tế toàn cầu và thực hiện tốt các cam kết quốc tế.
Thủ tướng nêu rõ mục tiêu chiến lược phát triển đất nước của Việt Nam: Đến năm 2030: là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Để góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển nêu trên, mục tiêu chính của việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng là: Xây dựng nền kinh tế có cơ cấu hợp lý, hiệu quả, bền vững. Nâng cao sức chống chịu và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; thích ứng linh hoạt, hiệu quả với những biến động tình hình quốc tế, khu vực và trong nước. Tận dụng tốt các cơ hội từ hội nhập quốc tế, tạo động lực thúc đẩy phục hồi nhanh trong ngắn hạn và phát triển bền vững trong trung và dài hạn. Đồng thời, cần đặc biệt chú trọng đến tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống người dân, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: "không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần".
Thủ tướng nhấn mạnh, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, dựa trên 3 trụ cột: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN.
Xác định rõ con người là trung tâm, là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy tối đa trí tuệ, tài năng và năng lực, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trên cơ sở các yếu tố nền tảng, trụ cột chính là con người, thiên nhiên và truyền thống lịch sử, văn hoá. Phát huy tinh thần đoàn kết, trí tuệ, bản lĩnh và đạo đức con người Việt Nam. Xây dựng và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, để thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thủ tướng ấn tượng với quy mô thư viện của Đại học Harvard |
Khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển; trong đó nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, ngoại lực là quan trọng, đột phá, thường xuyên; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển hóa ngoại lực thành nội lực. Tăng cường huy động các nguồn lực xã hội dưới hình thức hợp tác công tư, nhất là cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KTXH. |
Tập trung thực hiện và tạo chuyển biến rõ nét trong 3 đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng, trong đó chú trọng tạo đột phá về thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
50 năm chỉ 12 nước vượt qua bẫy thu nhập trung bình
Trao đổi thêm với các giáo sư Đại học Harvard, Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng cho rằng, tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, các cấu trúc về đầu tư, thương mại thay đổi chưa từng có. Do vậy, Việt Nam cũng phải có cách tiếp cận mới, nhanh chóng tham gia điều chỉnh chính sách, tham gia các cấu trúc mới ngay từ đầu. Điều đó đặt ra yêu cầu phát triển nền kinh tế tự lực, tự cường cao hơn, chịu được nhiều hơn trước tác động tiêu cực từ bên ngoài. "Việt Nam tự chủ động kiến tạo tương lai của mình, chứ không phải đi theo. Phát triển bền vững trong cả xã hội, con người, lấy người dân làm chủ thể nguồn lực để phấn đấu. Phát triển nhanh và bền vững cần động lực mới, là khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo, và văn hoá, con người Việt Nam", Bộ trưởng KH&ĐT nói.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng dẫn báo cáo của Ngân hàng thế giới cho thấy, 50 năm qua chỉ có 12 quốc gia vượt được bẫy thu nhập trung bình. Với mục tiêu đến 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao thì trong 23 năm còn lại Việt Nam phải vượt qua những thách thức rất lớn, để có thể đạt được sự phát triển như các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho rằng, Việt Nam đang định hướng chuyển đổi năng lượng, cần tăng nguồn lực đầu tư cho năng lượng. Việt Nam chủ trương xanh hoá ngành Điện, không xây dựng nhiệt điện than sau năm 2030. Phát huy mạnh năng lượng tái tạo, đạt 26,5% vào năm 2030. Tiến tới xoá bỏ độc quyền trong truyền tải điện, đưa Trung tâm điều độ điện A0 hoạt động độc lập với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) trong năm 2022. Dần chuyển sang thị trường bán lẻ điện cạnh tranh từ năm 2023.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, để tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước những cú sốc từ bên ngoài, Việt Nam luôn kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường năng lực phân tích dự báo, không sử dụng chính sách tiền tệ để tạo lợi thế cạnh tranh trong thương mại. Chính sách thương mại cần tiếp tục đa dạng hoá đối tác và thị trường.
Sau phần toạ đàm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã trực tiếp trả lời nhiều câu hỏi của các học giả và sinh viên.
Nội dung phát biểu và trao đổi của Thủ tướng Phạm Minh Chính đã gây ấn tượng mạnh và những đánh giá tích cực của các giáo sư Đại học Harvard. Những tràng pháo tay dài tán thưởng khi Thủ tướng và các thành viên đoàn Việt Nam rời khán phòng đi thăm khuôn viên trường đại học.
Tiền phong