MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Phòng chống rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái phép động vật hoang dã

Phòng chống rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái phép động vật hoang dã

Mới đây, tổ chức Wildlife Conservation Society (WCS Việt Nam) đã công bố báo cáo “Khảo sát về nhận thức và năng lực của đơn vị tình báo tài chính và các nhà cung cấp dịch vụ tài chính về phòng, chống rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái pháp luật động vật hoang dã tại Việt Nam”.

Báo cáo này là kết quả của hoạt động nghiên cứu được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của Học viện Ngân hàng, trong khuôn khổ hợp tác giữa WCS Việt Nam và Học viện Ngân hàng

Báo cáo cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý Nhà nước, các định chế tài chính, bao gồm các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng, các cơ quan thực thi pháp luật về công tác phòng, chống rửa tiền nói chung và phòng, chống rửa tiền liên quan đến các loại tội phạm nguồn như tội phạm buôn bán trái pháp luật động vật hoang dã (ĐVHD).

Một số kết quả chính của nghiên cứu như sau:

Về nhận thức chung về rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD

(1) phần lớn các cán bộ tham gia khảo sát nhận định buôn bán trái pháp luật ĐVHD là hoạt động tiềm ẩn rủi ro rửa tiền ở mức cao và trung bình cao, tuy nhiên vấn đề này mới được chú ý trong những năm gần đây và ở mức độ chưa cao: trong đó, cán bộ của các NHTM và TCTC phi ngân hàng đánh giá rủi ro rửa tiền từ buôn bán trái pháp luật ĐVHD cao hơn so với các cán bộ của nhóm FIU.

Cụ thể, tỷ lệ cán bộ đánh giá rủi ro rửa tiền ở mức cao và trung bình cao của NHTM là 84%, của TCTC phi ngân hàng là 80%, so với của FIU là 75%.

(2) các cán bộ tham gia khảo sát đều nhận định có 3 hoạt động tiềm ẩn rủi ro rửa tiền cao là hoạt động chuyển tiền/ thanh toán, thanh toán quốc tế/ tài trợ thương mại, và các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số.

Về khung pháp lý, nhận thức và thực thi các quy định trong thực tiễn công tác phòng, chống rửa tiền

(3) các quy định về phòng, chống rửa tiền (PCRT) liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD đã có nhưng chưa đầy đủ: có tới 90% cán bộ của các TCTC phi ngân hàng và hơn 60% cán bộ của các NHTM, nhóm FIU tham gia khảo sát nhận định rằng các quy định về PCRT hiện nay chỉ đề cập tới việc PCRT nói chung, chưa có quy định cụ thể liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD.

Bên cạnh đó, các quy định liên quan đến phòng, chống buôn bán trái pháp luật ĐVHD cũng chưa đề cập đến nội dung về theo dõi dòng tiền và PCRT. Việc thiếu các quy định về xác định nguồn gốc dòng tiền, xác định giá trị hàng hóa, xác định dấu hiệu nghi ngờ rửa tiền liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD, hay thiếu các hướng dẫn về trao đổi thông tin, hướng dẫn về công tác thanh tra… đã gây ra những khó khăn trong công tác thực thi của các cơ quan, đơn vị liên quan.

(4) phần lớn cán bộ của các NHTM và TCTC phi ngân hàng nắm được các quy định hiện hành liên quan đến PRCT; tuy nhiên hầu như họ không nắm được các quy định về bảo vệ ĐVHD: chỉ có 10% cán bộ NHTM được hỏi biết đến danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã thuộc các phụ lục của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).

Về xây dựng và tuân thủ các quy định nội bộ về PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD

(5) quy định nội bộ về PCRT tại các NHTM và các TCTC phi ngân hàng chỉ có các nội dung PCRT chung, chưa có nội dung cụ thể liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD. Trong nhóm các nhà cung cấp dịch vụ tài chính, các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước và nước ngoài được đánh giá là tuân thủ đầy đủ các quy định PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD.

Về thực hiện quy trình đánh giá rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD

(6) nhóm ngân hàng nước ngoài được đánh giá tốt nhất về hiệu quả thực hiện các nội dung trong quy trình đánh giá rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD do đã có kinh nghiệm áp dụng các quy định về PCRT của ngân hàng mẹ. Trong khi đó, các NHTM cổ phần và TCTC phi ngân hàng có mức áp dụng thấp hơn do phải cân đối giữa áp lực cạnh tranh kinh doanh và việc tuân thủ các quy định, quy trình về PCRT.

Tuy nhiên, các TCTC đều gặp khó khăn trong việc nhận diện rủi ro rửa tiền từ nguồn buôn bán trái pháp luật ĐVHD. Cho đến nay vẫn chưa có trường hợp nào nhận diện được rủi ro rửa tiền thu được từ hoạt động buôn bán trái pháp luật ĐVHD.

Về cơ chế chia sẻ thông tin, phối hợp liên ngành trong PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD

(7) cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin chưa hiệu quả (đặc biệt giữa hệ thống ngân hàng và các cơ quan thực thi pháp luật) là một trong những khó khăn lớn nhất đối với việc thực thi các quy định PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD.

Nhận định này được xác nhận bởi cả ba nhóm đối tượng khảo sát với 90% cán bộ TCTC phi ngân hàng, 85% cán bộ NHTM và 80% cán bộ nhóm FIU. Việc chưa có quy trình/chính sách cụ thể trong việc chia sẻ thông tin giữa các đơn vị liên quan để tiến hành điều tra tội phạm rửa tiền từ buôn bán trái pháp luật ĐVHD là một trong số những nguyên nhân dẫn đến khó khăn này.

Về nhu cầu nâng cao nhận thức và năng lực PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD

(8) năng lực và kinh nghiệm của cán bộ các TCTC về nghiệp vụ PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD còn thấp; có tới 100% cán bộ TCTC phi ngân hàng tham gia khảo sát cho biết chưa từng được đào tạo về PCRT nói chung và PCRT từ buôn bán trái pháp luật ĐVHD nói riêng; 62% cán bộ NHTM tham gia khảo sát cho biết các ngân hàng đã từng tổ chức các chương trình đào tạo về PCRT nói chung nhưng chưa có chủ đề về PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD; chỉ có 17% cán bộ NHTM tham gia khảo sát cho biết đã từng tham gia các khóa học nâng cao nhận thức, năng lực về PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD do các đơn vị khác tổ chức.

(9) nhu cầu cao về nội dung đào tạo PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD từ các cán bộ NHTM và TCTC phi ngân hàng: hơn 90% cán bộ được khảo sát mong muốn được đào tạo về các nội dung: nhận diện giao dịch đáng ngờ trong PCRT liên quan đến các loại tội phạm nguồn; đánh giá và đo lường rủi ro trong PCRT liên quan đến các loại tội phạm nguồn; biện pháp kiểm soát rủi ro trong PCRT liên quan đến các loại tội phạm nguồn; và quy định pháp lý về PCRT liên quan đến các loại tội phạm nguồn.

Về các khuyến nghị nhằm tăng cường hiệu quả phòng, chống rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD

(10) năm nội dung khuyến nghị nhằm tăng cường công tác phòng, chống rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD, bao gồm: (i) nâng cao khả năng nhận diện rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD; (ii) xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý chung về PCRT, phòng, chống buôn bán trái pháp luật ĐVHD và có các quy định dẫn chiếu phục vụ công tác điều tra dòng tiền bất hợp pháp từ các loại tội phạm nguồn; (iii) tăng cường cơ chế tuân thủ nội bộ và cơ chế quản lý rủi ro rửa tiền liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD tại các NHTM và TCTC phi ngân hàng; (iv) tăng cường cơ chế chia sẻ thông tin, phối hợp điều tra giữa các đơn vị chức năng nhằm phát hiện hành vi rửa tiền từ buôn bán trái pháp luật ĐVHD; (v) nâng cao nhận thức về các rủi ro rửa tiền từ buôn bán trái pháp luật ĐVHD, và xây dựng năng lực cho các TCTC cũng như các cơ quan thực thi pháp luật liên quan trong PCRT liên quan đến buôn bán trái pháp luật ĐVHD.

Báo cáo khảo sát này là nền tảng cho những nỗ lực của WCS Việt Nam trong quá trình thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức tài chính trong đấu tranh với các tội phạm phái sinh từ tội phạm liên quan đến ĐVHD, bao gồm tội phạm rửa tiền và các tội phạm tài chính khác, góp phần ngăn chặn hoạt động buôn bán trái pháp luật ĐVHD trên thế giới và tại Việt Nam.

Quảng Nguyên

Nhịp sống thị trường

Trở lên trên