Tại sao Trung Quốc không còn là “phao cứu sinh” đối với OPEC?
Khủng hoảng của ngành dầu mỏ toàn cầu là tổng hợp của một loạt các nhân tố, từ giá dầu thấp, quá tải năng lực lưu kho, cầu giảm sút và những đề xuất về thúc đẩy cuộc cách mạng năng lượng tái tạo thời hậu COVID-19.
- 25-04-2020Thuế, phí chiếm hơn 50% giá bán khiến giá xăng, dầu khó giảm sốc
- 25-04-2020Thị trường tuần tới 25/4: Giá dầu lao dốc 24%, vàng tăng cao
- 24-04-2020Thị trường ngày 24/4: Giá dầu tiếp tục leo dốc gần 20%, các hàng hóa khác cũng đồng loạt tăng cao
Các nhà phân tích thị trường dầu mỏ của Mỹ và châu Âu đang hướng hy vọng vào kịch bản giá dầu hồi phục từ nhu cầu gia tăng tại châu Á. Ngay cả các thiết chế tài chính toàn cầu như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) hay Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đều thống nhất cho rằng tương lai kinh tế và cầu năng lượng tại châu Á chắc chắn không thể bỏ qua Trung Quốc và mới đây nhất là Ấn Độ.
Sau nhiều thập kỉ ưu tiên cho các nền kinh tế phương Tây, giới sản xuất dầu mỏ, khí đốt trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã hướng nguồn lực đầu tư và các chiến lược năng lượng để chiếm giữ các thị trường mới nổi này. Trước khi COVID-19 bùng phát, Trung Quốc đã là một trung tâm thương mại, đầu tư và ảnh hưởng địa chính trị toàn cầu. Dù vẫn có những thông tin cảnh báo về tình hình kinh tế, tài chính xấu đi ở Trung Quốc, đại bộ phận các nhà đầu tư và giới vận hành thị trường vẫn coi đại lục là mục tiêu đầu tư hàng đầu. Căng thẳng gia tăng ở Biển Đông cùng với những tác động tiêu cực từ sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) không làm các nước và các tập đoàn xuyên quốc gia ngắt kết nối, giao dịch kinh tế với Trung Quốc.
Các nhà sản xuất OPEC không phải là ngoại lệ, khi không thể miễn nhiễm trước ảnh hưởng từ Bắc Kinh, với việc 50% tổng số đầu tư của khu vực này đổ vào nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Trung Quốc, bất luận ra sao, sẽ luôn là một đối tác quan trọng xét đến quy mô dân số, ảnh hưởng kinh tế, chính trị. Rồi đại dịch xuất hiện và gây ra những tác động toàn cầu mà dường như chỉ xuất hiện trong kịch bản các bộ phim kinh dị của Hollywood hay báo cáo của các tổ chức tư vấn độc lập. Không ai nghĩ sự tình lại như hiện nay. Khi phải đối mặt với sự thật, hệ quả đã vượt quá tính toán của tất cả mọi người.
Hiện chưa thể kiểm chứng được mức độ tổn thất thực sự mà COVID-19 gây ra, chủ yếu là chưa thể lượng định khoản tiền hàng nghìn tỉ USD mà các chính phủ bơm ra để cứu các doanh nghiệp. Nhưng các quan hệ địa chính trị và các tuyến trao đổi thương mại đã có sự thay đổi đáng kể. Vòng cung ảnh hưởng của Trung Quốc hiện ít nước theo kịp và giờ là lúc các nước nhận ra mối nguy hiểm của việc lệ thuộc quá nhiều và chỉ vào một nước đối trong vấn đề thương mại và an ninh quốc tế. Sự thiếu vắng khả năng kháng cự của hệ thống kinh tế toàn cầu, nhất là về sản xuất và thương mại, sẽ gây tác động tiêu cực cho Trung Quốc trong những năm tới đây. Cần phải có một khả năng đàn hồi dựa trên một hệ thống kinh tế đa dạng mới đủ sức chống lại hay làm dịu các cuộc khủng hoảng toàn cầu, dịch bệnh toàn cầu trong tương lai.
Đối với các nhà sản xuất dầu mỏ, nhất là khối Arab trong OPEC và Nga, lệ thuộc vào Trung Quốc và coi đây là người cứu cánh cho các kế hoạch sản xuất trong tương lai là trò chơi mạo hiểm. Tương tự như việc các nhà sản xuất dầu đá phiến Mỹ đã quá lệ thuộc vào kho chứa Cushing ở Oklahoma và phải trả mức giá quá đắt khi dầu WTI giảm sâu, có thời điểm rớt xuống mức giá âm khi Cushing cạn kiệt năng lực tiếp nhận, các nước xuất khẩu dầu ở Trung Đông, Vùng Vịnh cũng đã bị giáng một đòn mạnh khi cầu năng lượng của Trung Quốc sụp đổ.
Báo tin tức