MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Sáp nhập ngân hàng 'kiểu Việt Nam'

02-06-2014 - 11:30 AM |

Thay vì sử dụng kinh nghiệm xử lý nợ từ các tổ chức quốc tế, Việt Nam lại lựa chọn hình thức tự mình xử lý, và quá trình này chắc chắn sẽ tốn rất nhiều thời gian.

Nội dung nổi bật:

- Sóng M&A: Đợt sáp nhập ngân hàng Việt đầu tiên diễn ra dưới sức ép về sự an toàn thanh khoản của hệ thống, đợt thứ hai này là dưới sức ép về chất lượng tài sản. 

- Kinh nghiệm quốc tế: Để xử lý ngân hàng yếu kém, điều đầu tiên mà ngân hàng trung ương thực hiện là đánh giá lại nợ xấu ở các ngân hàng, thông qua một tổ chức độc lập. Sau đó, các khoản nợ xấu sẽ được bán lại cho bên thứ ba có chuyên môn xử lý nợ, với tỉ lệ chiết khấu khoảng 30-50%.

- Sáp nhập "kiểu Việt Nam": Thay vì sử dụng kinh nghiệm xử lý nợ từ các tổ chức quốc tế, Việt Nam lại lựa chọn hình thức tự mình xử lý. Việt Nam cứ cho các ngân hàng sáp nhập với nhau trước, còn nợ xấu tới mức nào thì không được làm rõ. 


Làn sóng sáp nhập các ngân hàng tại Việt Nam đã bắt đầu từ năm 2011 đến nay. Nổi bật là các thương vụ hợp nhất 3 ngân hàng SCB, Tín Nghĩa và Ficombank vào cuối 2011, SHB mua lại Habubank và Doji mua TienPhongBank năm 2012. Kết thúc năm 2013, ngoại trừ GPBank, các ngân hàng trong nhóm 9 ngân hàng yếu kém bắt buộc phải tái cấu trúc đã hoàn tất việc hợp nhất - sáp nhập với nhau.

Tuy nhiên, bước sang mùa đại hội cổ đông năm 2014, nhiều ngân hàng lớn nhỏ lại đánh tiếng về ý muốn sáp nhập, dự báo một làn sóng M&A có vẻ còn gấp gáp hơn đợt trước. Ngay cả những ngân hàng được xem là kín tiếng như Bản Việt và những ngân hàng có quy mô lớn nhất thị trường như Vietcombank, Vietinbank cũng hé lộ ý định M&A.

Dồn dập sáp nhập

Nếu như đợt đầu tiên diễn ra dưới sức ép về sự an toàn thanh khoản của hệ thống thì đợt thứ hai này là dưới sức ép về chất lượng tài sản.

Đợt sáp nhập đầu tiên diễn ra trong bối cảnh lãi suất và lạm phát cao, các ngân hàng lớn nhỏ đang trong cao trào của cuộc đua lãi suất cao để tranh giành tiền gửi. Còn đến giai đoạn này, vấn đề nợ xấu ngày càng phình ra đã không những cấn trừ vào lợi nhuận mà còn khiến cho các ngân hàng âm cả vốn chủ sở hữu. Đó là lý do khiến nhiều ngân hàng phải tính kế sáp nhập.

M&A có một điểm lợi là quy mô ngân hàng được phình to ra nhanh chóng, mà nếu tự lực phát triển sẽ phải mất một thời gian khá dài.

Sự ổn định của SCB, hay kết quả kinh doanh tốt của TPBank sau khi Doji nhảy vào, giúp nhiều ngân hàng khác nhìn thấy những tín hiệu khả quan thời hậu sáp nhập, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, nhận định. Do đó, nhiều ngân hàng khác không muốn đứng ngoài cuộc tái cấu trúc này mà chủ động tham gia vào.

Điều đó đúng với các ngân hàng quy mô nhỏ, nhưng đối với các ngân hàng lớn như Vietcombank và Vietinbank liệu sáp nhập có mang lại lợi thế hơn so với chi phí bỏ ra?

Theo Tiến sĩ Lê Hồng Giang, 2 ngân hàng lớn này quyết định tham gia mua lại ngân hàng khác không đơn thuần vì động cơ kinh tế và cũng không có nhiều động cơ để mở rộng thị trường, “Bản thân họ đã quá lớn để quản lý cho hiệu quả”, ông Giang nói.

Sáp nhập kiểu "Việt Nam"

Trong cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997. Để xử lý ngân hàng yếu kém, điều đầu tiên mà ngân hàng trung ương các nước này thực hiện là đánh giá lại nợ xấu ở các ngân hàng, thông qua một tổ chức độc lập. Sau đó, các khoản nợ xấu này sẽ được bán lại cho bên thứ ba có chuyên môn xử lý nợ, với tỉ lệ chiết khấu khoảng 30-50%.

Khoản lỗ do bán nợ xấu ngay lập tức được ghi nhận vào bảng cân đối của các ngân hàng, đồng nghĩa với việc vốn chủ sở hữu của các ngân hàng giảm xuống. Các ngân hàng buộc phải tăng vốn để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn vốn. Lúc này, cổ đông hiện hữu phải rót thêm tiền, hoặc một nhà đầu tư khác nhảy vào, nếu không ngân hàng chỉ còn một con đường là sáp nhập với tổ chức tín dụng khác.

Thế nhưng, ở Việt Nam, việc sáp nhập các ngân hàng yếu kém lại không diễn ra như vậy. Việt Nam cứ cho các ngân hàng sáp nhập với nhau trước, còn nợ xấu tới mức nào thì không được làm rõ.

Rõ ràng, nợ xấu là mục tiêu lớn nhất cần xử lý trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, thế nhưng tỉ lệ nợ xấu là bao nhiêu lại trông chờ vào các ngân hàng tự công bố. Do đó các ngân hàng có nhiều động cơ để giấu nợ xấu, trước mắt là không phải trích lập dự phòng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận, sau đó là chờ thị trường phục hồi hoặc được Ngân hàng Nhà nước giải cứu.

Một trong những cơ chế “chờ phục hồi” chính là quy định cho phép ngân hàng tự đánh giá nợ và được giữ nguyên nhóm nợ (theo tinh thần của Quyết định 780/2012 và Thông tư 09/2014). Ngay cả cơ quan được lập ra để xử lý nợ xấu là VAMC cũng hoạt động theo nguyên tắc thay vì ghi nhận khoản lỗ ngay lập tức thì lại chia đều thành 5 năm.

Thay vì sử dụng kinh nghiệm xử lý nợ từ các tổ chức quốc tế, Việt Nam lại lựa chọn hình thức tự mình xử lý, và quá trình này chắc chắn sẽ tốn rất nhiều thời gian.

Hậu M&A: Bức tranh nhiều bí ẩn

Trong tương lai gần, câu chuyện tái cấu trúc ngân hàng có vẻ sẽ có sự thay đổi lớn, khi nhìn vào 2 tín hiệu mới.

Thứ nhất là thương vụ ngân hàng Singapore UOB đang đàm phán mua lại toàn bộ GP Bank, ngân hàng cuối cùng trong danh sách ngân hàng yếu kém cần xử lý đợt đầu tiên. Nếu thương vụ này thành công, nghĩa là Ngân hàng Nhà nước đã chấp nhận sử dụng nguồn lực nước ngoài, một tín hiệu mở đường cho các thương vụ tiếp theo, sử dụng nguồn lực ngoại để đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu.

Yếu tố thứ hai là Thông tư 09, quy định khắt khe hơn về việc cơ cấu lại nợ. Có hiệu lực từ cuối tháng 3 vừa qua, Thông tư này được kỳ vọng sẽ giúp phản ánh chính xác hơn bức tranh nợ xấu. Bài học quốc tế cho thấy, minh bạch nợ xấu là bước đi đúng đắn đầu tiên trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.

>> Nhân sự ngân hàng sau sáp nhập: Thanh lọc là tất yếu

kyanh

Theo Gafin

Trở lên trên