MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

[Họp quốc hội] Đại biểu Nguyễn Thiện Nhân lý giải vì sao Việt Nam nghèo hơn các nước

30-10-2014 - 14:52 PM | Xã hội

Có 5 lý do trả lời cho câu hỏi vì sao năng suất lao động của Việt Nam thấp tương đương với câu hỏi vì sao Việt Nam nghèo.

Chiều ngày 30/10/2014 Quốc hội tiếp tục thảo tại Hội trường về tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015.

Trong phiên thảo luận chiều nay, bên cạnh sự tham gia của các Đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ có những giải trình về các ý kiến của Đại biểu phát biểu trong sáng nay.

(Nội dung phiên Thảo luận tại Hội trường về Kinh tế Xã hội 2014, nhiệm vụ năm 2015 sáng ngày 30/10)

Mở đầu phiên thảo luận buổi chiều, Đại biểu Trần Xuân Vinh – Tỉnh Quảng Nam phát biểu về tình hình kinh tế xã hội, tỷ lệ nợ xấu và tiến độ triển khai các dự án quốc gia ...

Theo Đại biểu Vinh, một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong thời gian qua như sau:

Thứ nhất, trong điều kiện suy giảm kinh tế, để đảm bảo tăng trưởng, giải quyết hàng tồn kho, đồng thời giải quyết việc làm, Quốc hội và Chính phủ đã tăng đầu tư, chấp nhận mức tăng chi ngân sách. Tuy nhiên đến năm 2015, nợ công kịch trần, lên 64%; nguồn thu khó khăn. Chất lượng hiệu quả đầu tư còn nhiều vẫn đề cần xem xét, một số công trình có liên quan về nguồn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA, quy mô đầu tư lớn nhưng chưa phù hợp với thực tế.  Tình hình đã nêu ở nhiều nơi nhưng trách nhiệm chưa rõ ràng, thiếu cụ thể.

Thứ hai, có quá nhiều chương trình, dự án quốc gia nhưng lồng ghép hiệu quả đầu tư chưa tương xứng với đồng vốn bỏ ra. Đây đó vẫn còn cơ chế xin cho đã làm giảm chất lượng của nền kinh tế. Đó là chỉ tiêu về tăng trưởng GDP. GDP không nên quá chú trọng vào tỷ lệ mà phải xem xét chất lượng tăng trưởng GDP trong thời gian qua.

Thứ ba, Báo cáo cho thấy đóng góp của các DN trong nước giảm, sản lượng tiêu thụ và tiềm năng của DN FDI tăng. Họ chuyển gần như toàn bộ phần giá trị này về nước hoặc đầu tư ở nước ngoài. Sau khi khai thác nguồn tài nguyên, nhập nguyên vật liệu và sử dụng nhân công giá rẻ của Việt Nam, họ chuyển đi. Phần Việt Nam được hưởng không nhiều..

Thứ tư, phải khẩn trương rà soát cơ chế, thể chế trong vấn đề điều hành phát triển kinh tế xã hội, đầu tư cho các tập đoàn, kể cả công ty mua bán nợ hay doanh nghiệp, từng bước gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu

Thứ năm, chất lượng nguồn lực VN còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với khu vực. Theo ILO, chất lượng lao động nước ta thấp, chỉ có 20% lao động sử dụng được. 

Theo đó, Đại biểu Trần Xuân Vinh cho rằng, cần đẩy mạnh tiết kiệm chi tiêu, tăng cường đầu tư, chi thường xuyên đã tăng liên tục trong thời gian qua. Quốc hội đã có nhiều cải cách nhưng tỷ lệ tăng vẫn liên tục chứng tỏ hiệu quả cải cách hành chính chưa cao.

Đồng thời, tăng cường kỷ cương, kỷ luật đầu tư, theo luật đầu tư công; không để thất thoát, hiệu quả phải tương xứng với đồng vốn bỏ ra. Đồng thời, tăng cường hiệu quả quy hoạch các dự án nhà nước.

Sáp nhập, tổng hợp lại các chương trình mục tiêu quốc gia, nâng cao hiệu quả. Đầu tư cho y tế, giáo dục, xây dựng nông thôn mới, đầu tư cho vùng núi, vùng xâu vùng xa ...

Các dự án tái định cư đã từng bước đáp ứng được yêu cầu. Nhưng để lâu dài bền vững cần tăng cường đầu tư hơn nữa

Tổng dư nợ, đến cuối tháng 9/2014, cho vay khoảng 7,26%, còn 3 tháng nữa để đạt 12-14% cần nỗ lực hơn nữa. Đồng thời cần tăng cường kiểm tra kiểm soát, các ngân hàng cho vay các dự án đầu tư, đặc biệt là giao thông cần kiểm soát kỹ lưỡng, tránh làm tăng nợ xấu cho những năm sau.

Tăng cường thu chi, cần chi cân đối trợ cấp tiền lương, giải quyết bất bình đẳng về lương. Đồng thời đề nghị CP, QH xây dựng nhà ở cho các đối tượng có công với nhà nước.

Đại biểu Đinh Thị Phương Khanh đoàn Long An phát biểu, bà đánh giá cao nỗ lực của Chính Phủ và Thủ tướng Chính Phủ trong thời gian qua đã điều hành nền kinh tế trong điều kiện khó khăn những vẫn đạt được nhiều kết quả khả quan đã nêu trong báo cáo. Tuy nhiên, trên từng lĩnh vực kinh tế vẫn còn những khó khăn, đại biểu đề nghị cần được đánh giá một cách sâu sắc và kỹ lưỡng hơn để có giải pháp khả thi. Liên quan đến vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn tôi có một số kiến nghị như sau:

ĐBSCL có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp góp phần an ninh lương thực quốc gia. Tuy nhiên, nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong vùng đang đối mặt với nhiều khó khăn cần được tập trung giải quyết:

(i) Được mùa mất giá do thiếu liên kết, đặc biệt là liên kết vùng, nên dù nguồn cung dồi dào nhưng phân tán nhỏ lẻ. Chưa điều tiết cung hợp lý, dẫn đến khi thừa khi thiếu, công tác dự báo thị trường còn yếu dẫn đến cung khi thừa khi thiếu, không khai tốt tiềm năng của từng địa phương. Trong sản xuất thiếu liên kết chặt chẽ giữa nông dân – nông dân, giữa nông dân – doanh nghiệp do bản thân doanh nghiệp và nông dân dễ lật kèo khi có điều kiện về giá. Vì vậy, cần có giải pháp đồng bộ tăng cường liên kết vùng , tăng cường dự báo dự tính thị trường để điều tiết cung hợp lý.

(ii) Năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông sản thấp. Thất thoát trong sản xuất và thu hoạch cao, riêng trong sau thu hoạch lúa hàng năm đã thất thoát 600 triệu USD. Nông sản chủ yếu ở dạng sơ chế nên giá trị thấp. Chính phủ dành ngân sách thích đáng cho nghiên cứu chuyển giao công nghệ nhất là công nghệ sau thu hoạch nhằm giảm thất thoát và nâng cao giá trị hàng hóa. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.

(iii) Hàng năm ĐBSCL đóng góp hơn 80% sản lượng xuất khẩu nhưng đời sống nông dân khó khăn do nông dân chưa được xem là gốc của chuỗi giá trị nênviec65 điều hòa lợi ích của các thành viên tham gia vào chuỗi còn yếu. Nông dân làm ra 70% giá trị hàng hóa nhưng được hưởng 25% tổng lợi nhuận của chuỗi. Bên cạnh đó người nông dân trong quá trình sản xuất gặp nhiều rủi ro, dễ tổn thương, thu hoạch lệ thuộc vào thương lái. Nên cần xem xét nông dân là gốc trong chuỗi ngành hàng để có chính sách điều tiết phù hợp.

(iv) Nguồn nhân lực dồi dào nhưng thiếu chuyên môn, kỹ thuật. Chính sách đào tạo nghề chưa mang lại hiệu quả. Cần đổi công tác đào tạo nghề, chọn ngành nghề chủ lực của vùng, đẩy mạnh hình thức liên kết gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới.

(Nội dung phiên Thảo luận tại Hội trường về Kinh tế Xã hội 2014, nhiệm vụ năm 2015 sáng ngày 30/10)

Đại biểu Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm đoàn Hà Nội phát biểu, mặc dù tình hình kinh tế xã hội trong thời gian qua đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại thể hiện kinh tế phát triển chưa vững chắc. Các ý kiến phản ánh của Chính phủ, báo chí còn phần nào nhẹ nhàng. Do đó, cần cân nhắc để đánh giá chuẩn xác hơn nhất về nợ công, nợ xấu và xử lý nợ xấu của hệ thống Ngân hàng. Chỉ từ các số liệu chuẩn xác Quốc hội mới xem xét để cân đối ngân sách nhà nước, cử tri thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình để góp phần tăng trưởng, phát triển kinh tế vào những năm tới.

Đại biểu cũng cho rằng, nhìn nhận về tăng trưởng kinh tế không chỉ qua các số liệu đã đạt được mà cần đánh giá hiệu quả của đầu tư phát triển. Lãng phí từ đầu tư xây dựng một số nhà văn hóa, TTTM, quỹ đất, hiệu quả còn hạn chế. Đầu tư cho giao thông về cơ bản có hiệu quả nhưng còn một số dự án gây bức xúc cho cử tri, như một số tuyến đường vừa hoàn thành đã lún nứt , hay trong 19 đường hầm ở Hà Nội thì có 4 đường đang khóa cửa không sử dụng… 

Bên cạnh đó, quản lý tài nguyên bảo vệ môi trường, năm 2014 Chính phủ đã tích cực triển khai nhiều Nghị quyết TW, hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng cường quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường. Song còn chưa quyết liệt trong tổ chức thực hiện, và giám sát thanh tra xử lý. Xử lý tồn đọng quỹ nhà quỹ đất của thị trường BĐS theo Bộ xây dựng tính đến hết tháng 12/2013, cả nước có 4015 dự án phát triển nhà ở, khu đô thị mới với tổng vốn gần 4,5 triệu tỷ đồng, quỹ đất 102 ngàn ha. 

Việc xây dựng chính sách giám sát đất đai đa số được thực hiện ở cấp TW và các bộ ngành có liên quan, các tỉnh cấp xã huyện còn thiếu và yếu về năng lực. 

Về nhiệm vụ, giải pháp phát triển KTXH 2015, Đại biểu Thích Bảo Nghiêm cho rằng có 9 nhóm giải pháp cơ bản, tuy nhiên cần tập trung vào nhóm giải pháp nâng cao. Đó là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có vấn đề lương. 

Lộ trình tăng lương cần giải quyết theo đúng quy định, tập trung tăng lương cho cán bộ công nhân, người lao động, người về hưu. Đây là vấn đề tác động đến chống tham nhũng, thực hiện cải cách hành chính, hiệu quả quản lý bộ máy. Có phải do khó khăn về cân đối ngân sách nhà nước mà chậm thực hiện lộ trình tăng lương hay do quan điểm và cách tiếp cận giải quyết?
Hiện nay chi thường xuyên chiếm 67,3%; chi đầu tư phát triển chiếm 17,1% và chi trả nợ 13,2% tổng chi ngân sách. Do vậy, cấu trúc lại chi ngân sách là yêu cầu đã đặt ra nhiều và cần xem xét điều chỉnh để thực hiện cải cách tiền lương. 

VN có tới 2,8 triệu cán bộ viên chức, chi lương hết 9% GDP. Trong khi đó các nước phát triển chỉ chi tới 7% GDP. Lương viên chức quá lớn, cần cắt giảm bộ máy, biên chế, nâng cao hiệu quả bộ máy để có nguồn cải cách tiền lương. Cắt các nguồn chi không hợp lý như khánh tiết, đi nước ngoài, tiếp khách, lễ hội … Tăng lương đã hoãn 2 năm nên cần xem tính toán khoa học, giới hạn hợp lý các nguồn chi để giải quyết tăng lương theo lộ trình. Trong bối cảnh thị trường hiện nay thì đây là đối tượng cần được quan tâm.

Đại biểu Đỗ Thị Huyền Tâm đoàn Bắc Ninh phát biểu, năm 2014 có 13/14 chỉ tiêu đạt kế hoạch, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định... Tuy nhiên, tình kinh tế vẫn chứa đựng nhiều rủi ro, nhiều cơ chế tháo gỡ cho sản xuất kinh doanh vẫn còn chậm đi vào cuộc sống, năng suất lao động thấp, cổ phần hóa DNNN còn chậm chưa đạt yêu cầu.

Phương hướng năm 2015, đại biểu Tâm cho rằng năm 2015 là quan trọng, năm cuối thực hiện kế hoạch 2011 – 2015, đại biểu nhất trí cao các giải pháp trong Báo cáo Chính phủ đã trình bày nhưng đề nghị năm 2015 cần đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng phù hợp với từng thời điểm. Chính phủ chủ động ưu tiên giải pháp trong từng thời điểm cụ thể.

Về các chỉ tiêu kinh tế xã hội bà Tâm kiến nghị: nâng tổng vốn đầu tư phát triển là 32%GDP; CPI nên khoảng 5%; cần rà soát giảm xuống 3-4 chỉ tiêu.

Về một số nhiệm vụ giải pháp chủ yếu đã nêu, bà Tâm đề nghị: Đẩy mạnh cải cách thể chế, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; Đẩy mạnh đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế; giải pháp về thuế, lãi suất, hấp thụ vốn tín dụng đủ mạnh hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn; Ứng phó kịp thời, đảm bảo an ninh... ; Cải cách bộ máy gắn liền với cải cách tiền lương.

Đại biểu Lê Thị Nguyệt đoàn Vĩnh Phúc phát biểu, theo báo cáo của Thủ tướng, năm 2014 có 13/14 chỉ tiêu đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch, trong đó cốt lõi là ổn định chính trị KTXH. Kết quả cho thấy nỗ lực lớn của Chính phủ trong công tác chỉ đạo, điều hành, nhất là chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, các hạn chế và tồn tại vẫn còn khá nhiều.

Thứ nhất, về sản xuất công nghiệp, phát triển doanh nghiệp, liên quan đến lao động và việc làm. Năm 2014 có khoảng 52,3 nghìn Doanh nghiệp mới thành lập, giải quyết việc làm cho 795,2 ngàn lao động. Nhưng có 48,33 nghìn DN giải thể, tạm ngừng hoạt động. Nhưng chưa rõ có báo nhiêu lao động mất việc làm hoặc nghỉ việc.

Số lượng DN thành lập mới nhiều nhưng có bao nhiêu DN đi vào hoạt động. Sau 4 năm (2011-2014), số DN đăng ký thành lập đạt 600 nghìn như qua báo cáo giám sát mới có 161 ngàn DN tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động. So với số DN thành lập thì đây là con số quá nhỏ, chưa đạt 1/3. Khoảng cách đã không phản ánh được thực chất phát triển DN. Có bao nhiêu DN mới thành lập, đi vào hoạt động thì con số có việc làm mới cho 795,2 nghìn lao động chưa thỏa đáng. 

Về DN cổ phần hóa: Tiến độ cổ phần hóa còn chậm, nhiều vấn đề liên quan đến tiền lương, BHXH đang gặp vướng mắc. Theo quy định của Luật lao động 2013, Các DN phải xây dựng thang bảng lương làm cơ sở tuyển dụng lao động, thỏa thuận mức lương ghi trong hợp đồng và trả lương cho người lao động. Nhưng cho đến nay, nhiều DN vẫn chưa áp dụng.

Về tái cơ cấu kinh tế, DN nhà nước: Tổng thể nền kinh tế đóng góp từ nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng góp 40% GDP, còn lại là các thành phần khác. Tuy nhiên, kết quả tái cơ cấu khu vực ngoài nhà nước vẫn chưa được đề cập trong các báo cáo. Cần làm rõ tái cơ cấu khu vực kinh tế nhà nước hay tái cơ cấu nền kinh tế nhà nước.

Về giải quyết việc làm, tỷ lệ thất nghiệp và an ninh xã hội: Báo cáo của Chính phủ nêu hàng năm giải quyết việc làm cho 1,5 đến 1,7 triệu lao động. Một số trường hợp vẫn có việc làm nhưng đồng lương thu được không đủ nuôi sống bản thân thì có coi là có việc làm không? Chính phủ cần có hệ thống theo dõi, dự báo về việc làm để phán ánh nền kinh tế, cũng như sức sống của nền kinh tế và giúp cho định hướng nhiều chính sách nghiêm trọng có liên quan. 

Số DN phá sản nhiều, hàng trăm nghìn lao động đã đóng BHXH nhưng bị chủ DN chiếm dụng thì giải quyết như thế nào? Chỉnh phủ cần có chính sách quy định rõ ràng nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. 

Về kế hoạch phát triển KTXH năm 2015, Đại biểu Lê Thị Nguyệt cho rằng, các chỉ tiêu đưa ra cần gắn với trách nhiệm, quy trách nhiệm mới có những chỉ tiêu sát với thực tế. 

Bối cảnh thế giới và trong nước năm 2015 khó khăn vẫn nhiều hơn năm 2014, trong khi các chỉ tiêu chủ yếu lại cao hơn 2014. Trong 20 chỉ tiêu thì có 7 chỉ tiêu đong đếm được chỉ đặt khoảng, còn 13 chỉ tiêu khó đong đếm lại được ấn định. Chính phủ, Quốc hội cần xem xét để ấn định các chỉ tiêu này nhằm quyết tâm thực hiện đúng chỉ tiêu đề ra.

(Nội dung phiên Thảo luận tại Hội trường về Kinh tế Xã hội 2014, nhiệm vụ năm 2015 sáng ngày 30/10)

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé – Kiên Giang kiến nghị:

(i) Đối với nợ xấu: Mặc dù đây là vấn đề được các thành viên Chính phủ bàn nhiều vào phiên họp 29/10 khẳng định nợ xấu được xử lý khả quan, nhưng bà còn băn khoăn. VAMC hoạt động chưa đạt được mục tiêu nhiệm vụ đề ra, nợ xấu của NHTM có chiều hướng tăng lên. Nợ xấu cuối năm 2013 là 3,61%, đến cuối tháng 5/2014 là 4,07%, tháng 7/2014 là 4,11%. Đồng thời thị trường bất động sản vẫn gặp nhiều khó khăn làm trầm trọng hơn nợ xấu. Đây là dấu hiệu bất ổn trong điều kiện kinh tế mới phục hồi.

"Với các giải pháp hiện tại, và điều kiện hoạt động của VAMC như hiện nay liệu có thể giải quyết được dứt điểm vấn đề nợ xấu không? Đề nghị Chính phủ, các bộ ngành cần có giải pháp tốt hơn để giải quyết nợ xấu tăng trở lại của hệ thống NHTM, đánh giá lại hiệu quả của VAMC.... trên cơ sở đó có chính sách cơ chế tạo điều kiện cho VAMC thực hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra" đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé nhấn mạnh.

(ii) Đánh giá khu vực kinh tế tư nhân, đại biểu Bé cho rằng báo cáo của Chính phủ chưa đánh giá cụ thể hoạt động của khu vực này. Đây là khu vực kinh tế có đóng góp quan trọng vào nền kinh tế xã hội ( giải quyết việc làm...) Tuy nhiên, đây là khu vực dễ bị tổn thương, chính sách ưu đãi chưa thực sự bình đẳng cho khu vực này. Bên cạnh đó, tiếp cận vốn ưu đãi khó khăn, thực trạng hoạt động không ổn định....Cần có cơ chế chính sách tạo điều kiện cho khu vực này phát triển, tạo cơ chế thông thoáng để tiếp cận vốn.

(iii) Chính sách cho vùng kinh tế trọng điểm (ĐBSCL): Chính phủ sớm chỉ đạo các bộ ngành liên quan ban hành cơ chế chính sách đặc thù để tạo điều kiện phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở ĐBSCL.

Đại biểu Hòa Thượng Thích Chơn Thiện – Thừa Thiên Huế đã đưa ra những ý kiến liên quan đến Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông:

(i) Bộ Giáo dục chủ trương về nội dung chương trình các lớp học, cấp học, môn học, trách nhiệm chi phí biên soạn, nghiệm thu. Công tác biên soạn giao cho các Sở giáo dục các tỉnh thành như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh có sự tham gia của các giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy có khả năng biên soạn để biên soạn trong thời gian có hạn định.

(ii)  Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo: Đổi mới sách giáo khoa là một phần trong nhiều phần của đổi mới giáo dục toàn diện. Đổi mới giáo dục toàn diện đòi hỏi có một quy trình lâu dài công phu: đổi mới phương pháp giáo dục truyền đạt, đổi mới cách đánh giá năng lực học tập, đổi mới cách thức tiếp nhận kiến thức, học hỏi...Đổi mới về tổ chức hệ thống giáo dục đào tạo bao gồm 3 lĩnh vực nền tảng: Quản trị (quản lý); khóa trình; tâm lý giáo dục...

Đại biểu Bế Xuân Trường của đoàn Bắc Kạn phát biểu, với những diễn biến phức tạp, khó lường, tình hình biển Đông nảy sinh nhiều vấn đề đã tác động sâu sắc đến phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng và đối ngoại. Tuy nhiên, với bản lĩnh trí tuệ của Đảng, sự điều hành quyết liệt linh hoạt của Chính phủ, sự đồng thuận của nhân dân và sự đóng góp của cộng đồng các DN, chúng ta vẫn kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô ... Các chỉ tiêu KTXH 2014, có 13/14 chỉ tiêu đạt và vượt, duy trì tăng trg cao hơn 2013. Đặc biệt là mục tiêu an sinh xã hội, QP an ninh được bảo vệ, vị thế của VN trên trường quốc tê đc nâng cao.

Đánh giá về phương hướng nhiệm vụ 2015, Đại biểu Bế Xuân Trường cho rằng:

Thứ nhất, từ nay đến năm 2020, chúng ta cơ bản thành nước công nghiệp phát triển nhưng cơ sở còn nhiều trăn trở bức xúc. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước cần tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp phụ trợ. Bởi vì công nghệ cao mới là nội dung cơ bản cốt lõi, là linh hồn, của nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Thực tế đã cho thấy, quốc gia nào làm chủ công nghệ cao sẽ độc lập về kinh tế và không bị phụ thuộc. Những năm vừa qua, tại sao hàng hóa VN không cạnh tranh được với thế giới. Bởi hàng hóa VN chủ yếu là gia công lắp ráp, hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm thấp; thiếu linh hồn công nghệ cao.

Để khắc phục tình trạng này, Nghị Quyết đã xác định tái cấu trúc nâng cao năng lực hiệu quả sức cạnh tranh; đột phá đào tạo nguồn lực, xây dựng cơ sở hạ tầng. Đây là yếu tố để phát triển công nghiệp công nghệ cao.

Thứ hai, vấn đề khai thác tài nguyên mãi cũng cạn kiệt, nhưng trí tuệ là cái không bị cạn kiện thì chưa khai thác hết. Cái quan trọng ở đây chính là cơ chế chính sách chiêu hiền đãi sỹ.  Nếu thực hiện tốt vấn đề đào tạo nguồn lực, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ. Xây dựng cơ chế mới để phát triển con người. Khi đó mới thực hiện xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, CN phát triển mới là nền tảng vững chắc cho quốc phòng, an ninh. Đó là một trong những yếu tố xác định sức mạnh bảo vệ tổ quốc.

Thứ ba, tập trung đẩy mạnh tái cấu trúc ngành nông nghiệp, đưa ứng dụng khoa học và lĩnh vực này. VN có nhiều lợi thế về nông, lâm ngư nghiệp. Kinh tế thế giới suy thoái, kinh tế VN gặp khó khăn thì ngành này giữ vai trò quan trọng, quyết đinh sự ổn định chính trị. Nhưng kết qủa đạt được so với tiềm năng lợi thế còn khá khiêm tốn, khâu đột phá còn chưa ổn. Nếu làm tốt điều này, 70% nông dân VN sẽ đạt được lợi ịch; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh

Đại biểu Phạm Văn Cường – đoàn Lào Cai tham gia góp ý kiến vào giải pháp thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2015 như sau:

(i) Mục tiêu giảm nghèo 1,7 – 2%, đại biểu đề nghị mục tiêu giảm nghèo là 2%. Để đạt được mục tiêu giảm nghèo 2% chúng ta cần những giải pháp: Chính phủ và Quốc hội chuyển đổi cơ chế từ hỗ trợ trực tiếp cho người dân sang cho vay không lãi 3 năm thông qua 4 Hội. Cho phép người đứng đầu địa phương chịu trách nhiệm về mục tiêu này.

(ii) Đầu tư công: Báo cáo Chính phủ trình Quốc hội mức đầu tư phát triển toàn xã hội tương đương năm 2014, đánh giá một trong 10 năm có mức đầu tư thấp nhất, quá khó khăn. Đạibiểu chia sẻ khó khăn với Chính phủ đồng thời đề nghị cần tăng thêm vốn NS cho đầu tư phát triển – dành 20% nguồn thu tăng thêm của năm 2014 cho đầu tư phát triển (khoảng 10.000 tỷ đồng) để giải quyết các nội dung Chương trình xóa đói giảm nghèo và một chương trình 293.

(iii) Tăng trưởng dư nợ tín dụng: đại biểu đánh giá NHNN trong thời gian qua đã tham gia tốt vai trò của mình trong kiềm chế lạm phát, dự trữ ngoại hối..., giảm lãi suất tuy nhiên lĩnh vực nông thôn cần phải quan tâm hơn. Chính sách cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn đề nghị như sau: hỗ trợ cho mỗi hộ gia đình từ mức 50 lên 100 triệu đồng; hộ sản xuất kinh doanh từ 200 lên 500 triệu đồng, hợp tác xã từ 500 triệu lên 1 tỷ đồng và đơn giản hóa thủ tục với các đối tượng này.

(iv): Đẩy mạnh xuất nhập khẩu: Điều chỉnh thay thế quyết định 44 liên quan khu kinh tế cửa khẩu của tỉnh Lào Cai.

Đại biểu Lê Đình Khanh đoàn Hải Dương phát biểu, về quá trình phát triển kinh tế trong thời gian quan, cần nhìn nhận một thực tế, nông nghiệp vẫn là trụ đỡ của nền kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực. Muốn đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp, cần đầu tư nhiều hơn và đầu tư có trọng điểm. Đề nghị Chính phủ và Quốc hội cấp đủ kinh phú cho nông nghiệp, bao gồm cả chi phí nghiên cứu và phát triển.

Đồng thời, Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ sản xuất thức ăn chăn nuôi, vắc xin phòng bệnh cho gia súc gia cầm … Hỗ trợ quy hoạch, chỉnh trang đồng ruộng, cải tạo nâng cấp hệ thống kênh mương, hỗ trợ vay vốn đầu tư cơ giới hóa nông nghiệp.  Đây là những vấn đề nhỏ với cơ quan nhà nước, nhưng lại là vấn đề lớn với người nông dân; do đó cần có nguồn ngân sách đầu tư phù hợp.

Ngoài ra, việc thúc đẩy chuỗi liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa, trong đó nhà nước đóng vai trò chính trong việc tháo gỡ vướng mắc cũng cần được đặt ưu tiên hàng đầu.
Nhà nước cần có rào cản kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng nông sản trong nước sản xuất được, tăng quản lý thị trường, ngăn hàng nhập lậu, hàng trốn thuế; khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp nông thôn.

(Nội dung phiên Thảo luận tại Hội trường về Kinh tế Xã hội 2014, nhiệm vụ năm 2015 sáng ngày 30/10)

Đại biểu Nguyễn Thiện Nhân đoàn Bắc Giang - Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - phát biểu 2 nội dung có liên quan với nhau: (i) Năng suất lao động thấp của Việt Nam và thu nhập thấp của người nông dân; (ii) Các giải cải thiện tình hình.

Ông Nguyễn Thiện Nhân


Theo thông tin báo chí ngày 9/5/2014 của Tổ chức lao động thế giới, năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 được xếp vào nhóm thấp nhất của khu vực Châu Á Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Malaysia 5 lần, Thái Lan 2,5 lần.

Do không được thông tin đầy đủ về cách tính năng suất lao động của tổ chức quốc tế nên từ các số liệu trên có ý kiến phát biểu trên truyền thông cho rằng do trình độ nghề nghiệp lao động Việt Nam thấp là nguyên nhân của tình trạng trên. Nhận định như vậy chưa phản ánh đúng bản chất kinh tế của khái niệm năng suất lao động và thực tế của Việt Nam.

Vì năng suất lao động là kết quả phát triển lâu dài của một đất nước, do một hệ thống nhiều yếu tố chi phối, không phải chỉ do trình độ nghề nghiệp lao động. Tổ chức lao động thế giới tính năng suất lao động như sau: năng suất lao động = tổng sản phẩm nội địa/tổng số người làm việc trong nền kinh tế, tức năng suất lao động được đo bằng sản phẩm nội địa theo đầu người.

Như vậy, khi tỷ lệ người làm việc trong dân số các nước xấp xỉ như nhau thì so sánh năng suất lao động giữa các nước cũng tương đương so sánh tổng sản phẩm nội địa theo đầu người giữa các nước. Theo phân loại của Ngân hàng Thế giới, một quốc gia có tổng sản phẩm nội địa dưới 1.000 USD/người/năm được xếp vào nước ngoài. Việt Nam thoát nghèo vào năm 2008. Câu hỏi vì sao năng suất lao động của Việt Nam thấp tương đương với câu hỏi vì sao Việt Nam nghèo? Việt Nam nghèo hơn so với các nước khác có nhiều nguyên nhân:

(1) Xuất phát điểm của Việt Nam và các nước là khác nhau (bao gồm cả hạ tầng, trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ....);

(2) Khả năng tự tích lũy của nền kinh tế còn thấp. Khả tích lũy để tái đầu tư thấp dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia đầy đủ các khâu của chuỗi sản xuất/giá trị hàng hóa do đó giá trị gia tăng chưa cao;

(3) Trình độ công nghệ thấp, lạc hậu. Theo báo cáo điều tra giai đoạn 2000 – 2011, các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao chỉ chiếm 2%, sử dụng công nghệ trung bình thấp chiếm 29%, sử dụng trung bình cao chiếm 10%, công nghệ thấp chiếm gần 60%.

(4) Vẫn sử dụng nhiều lao động trong nông nghiệp, và trình độ lao động thấp. Năm 2014 lao động trong nông nghiệp chiếm 47% lao động cả nước góp 18% tổng sản phẩm nội địa. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp đến năm 2014 mới đạt 40%, trong khi Singapore đạt 62%, Hàn Quốc là 62%.

(5) Đầu tư cho khoa học công nghệ thấp. Từ năm 2001 – 2011, tỷ lệ đầu tư cho khoa học công nghệ chỉ đạt 0,5% tổng sản phẩm nội địa. Trong vòng 10 năm tỷ lệ này chỉ tăng từ 0,48% lên 0,51%.

Ngoài 5 yếu tố trên còn nhiều yếu tố khác như sản xuất gia công, xuất khẩu sản phẩm thô, cổ phần hóa doanh nghiệp còn chậm....

Lao động Việt Nam có khả năng làm chủ công nghệ hiện đại năng suất cao không? Trong các nhà máy do nước ngoài đầu tư như Intel, Samsung, Toyota, lao động Việt Nam hoàn toàn làm chủ công nghệ kỹ thuật hiện đại đạt năng suất kỹ thuật không thua kém các nước, mà chi phí lao động chỉ bằng 1/10 hay 1/20 các nước khác.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, nền nông nghiệp Việt Nam có 12 loại cây trồng vật nuôi có năng suất cao nhất thế giới: Gạo, điều, nho, cao su, tiêu, cà phê, dừa, chè, nho, thuốc lá, cá tra, bò sữa. Xuất khẩu nông sản năm 2013 đạt gần 20 tỷ USD, nhưng đời sống người nông dân vẫn gặp nhiều khó khăn, thu nhập không ổn định, tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa; nông dân cá thể không thể chi phối được thị trường đầu vào và sản phẩm đầu ra. 2 thị trường này có dấu hiệu thỏa thuận giữa các doanh nghiệp để tăng giá đầu vào hạ giá đầu ra. Đầu vào cao, chất lượng kém vẫn phải mua, đầu ra giá thấp vẫn phải bán.

Làm thế nào để tăng năng suất lao động cho nền kinh tế và tăng thu nhập cho người nông dân? Tăng năng suất lao động của nền kinh tế phải tăng năng suất lao động của từng khu vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Cần tập trung tháo gỡ nút thắt với sự phát triển bền vững của nông nghiệp để tăng năng suất lao động khu vực nông nghiệp, tăng thu nhập cho người nông dân. Giải pháp là phát triển các hình thức hợp tác trong sản xuất nông nghiệp; chuyển mô hình sản xuất từ hộ sản xuất cá thể, mua bán trực tiếp trên thị trường đầu vào đầu ra, không có tính cạnh tranh cao, chèn ép hộ nông dân sang mô hình mới hộ nông dân liên kết trong tổ chức hợp tác, tổ chức hợp tác mua bán trên thị trường đầu vào đầu ra, có tính cạnh tranh cao, xuất khẩu đem lại lợi ích cho doanh nghiệp và các tổ chức hợp tác của nông dân.

Đại biểu xin đề nghị lãnh đạo các cấp, các ngành, các địa phương, các chủ doanh nghiệp khi bàn về làm sao để tăng trưởng bền vững hơn, hiệu quả hơn hãy đặt 5 câu hỏi thay vì 2 câu: (1) người có đào tạo ở đâu? (2) Khoa học công nghệ ở đâu? (3) Thị trường ở đâu? (4) Đất ở đâu? (5) Vốn ở đâu? Chứ không dừng lại ở 2 câu hỏi vốn ở đâu và đất ở đâu? Thay đổi mô hình tư duy và thay đổi mô hình phát triển kinh tế là giải pháp gốc cho tăng năng suất và tăng thu nhập.


Sau ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã có báo cáo về tình hình nợ công và an toàn nợ công.

Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, tình hình nợ công trong thời gian qua là nỗi băn khoăn, trăn trở của nhiều cử tri và Đại biểu Quốc hội. Bộ tài chính có các ý kiến tiếp thu và giải trình về thực trạng nợ công như sau:

Về thực trang nợ công, trước năm 2010 Việt Nam chưa có quy định pháp lý. Các chỉ số về nợ ở mức thấp phù hợp với định hướng của Chính phủ. Nợ chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.

Cụ thể, dự nợ chính phủ năm 2011 ở mức 35% GDP; 2006 là 35,2% GDP; đến năm 2009 tăng lên 41,9% GDP do tăng vay nợ để kích cầu. 

Dư nợ quốc gia năm 2011 ở mức 38,1% và đến 2009 tăng lên 38,8% GDP. Từ năm 2010 đến nay, Luật quản lý nợ công có hiệu lực thi hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng, công tác quản lý nợ có nhiều chuyển biến tích cực. 

Vốn vay đã bổ sung nguồn vốn đáng kể, đầu tư xã hội và đầu tư ngân sách nhà nước, nhiều dự án lớn như hạ tầng giao thông đã đi vào sử dụn, góp phần thúc đẩy sản xuất, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. 

Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế chậm lại; cân đối ngân sách nhà nước cùng lúc phải sắp xếp, cân đối nguồn lực để thực hiện nhiều giải pháp quan trọng; dẫn đến tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong ngân sách nhà nước giảm so với các giai đoạn trước. 

Từ năm 2010, VN đã phải huy động trái phiểu Chính phủ cho đầu tư lớn. Bội chi ngân sách cao, cùng với việc thúc đẩy nhanh giải ngân ODA, dư nợ công tăng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ lệ so với GDP. Năm 2011 nợ công chiếm 50% GDP; tăng 24,8% so với năm trước; năm 2012 là 50,8% GDP; tăng 18,4% ... Ước 2014 nợ công là 60,3% GDP; tăng 23,3%; dự kiến năm 2015 là 64% GDP; tăng 19,9%.

Mặc dù vậy, trong thời gian qua, các chỉ số về nợ công, nợ chính phủ … vẫn trong giới hạn cho phép; song vẫn đứng trước nhiều khó khăn và thách thức.

Bên cạnh đó, VN đã đảm bảo trả đủ, kịp thời nợ đến hạn; không làm phát sinh nợ xấu.

Cơ cấu các khoản nợ vay trong nước tăng góp phần giảm tỷ lệ vay nước ngoài và rủi ro về tỷ giá. Đồng thời cho thấy sự tự chủ của kinh tế trong nước.

Dư nợ trong nước của Chính phủ tăng từ 43% năm 2010 lên 54,5% năm 2014. Nợ nước ngoài giảm tương ứng từ 59,7% năm 2010 xuống còn 45,5% năm 2014. Về sử dụng tiền vay, vay đầu tư chiếm 98,1%; vay ngân sách 1,4%; vay chi sự nghiệp 0,4%.


Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng

Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ tài chính cũng chỉ ra những tồn tại hạn chế của vấn đề nợ công, nợ xấu trong thời gian qua. 

Về thể chế, luật đã quy định nợ công gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Tuy nhiên vẫn còn nhiều ý kiến tranh cãi về phạm vi của nợ công
Dư nợ công tăng nhanh, cuối 2015 đã sát ngưỡng quy định của Chính phủ. Cơ cấu nợ chưa thực sự bền vững, các khoản vay trong nước đã tăng lên trong những năm gần đây nhưng chủ yếu là vay ngắn hạn.  Thời hạn vay nợ trong nước trung bình chỉ khoảng 4,4 năm, riêng trái phiếu Chính phủ là 2,6 năm làm tăng áp lực chi trả ngắn hạn.

Thực tế trong những năm qua chúng ta đã phải đảo nợ để trả nợ khi đến hạn. Dự kiến số nợ phải trả năm 2014 là 77 nghìn tỷ.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường - Ông Nguyễn Minh Quang báo cáo Quốc hội xung quanh chuyển đổi cây trồng.

Theo Bộ trưởng, chủ trương của Trung Ương, Quốc Hội về quy hoạch đất trồng lúa, đến năm 2020 phải giữ được 3,8 triệu ha đất trồng lúa. CHính phủ đã ban hành Nghị định 42 về quản lý sử dụng đất trồng lúa. Năm 2013 diện tích đất trồng lúa cả nước đạt  4,07 triệu ha đất trồng lúa. Thực hiện chủ trương của Trung ương về tái cơ cấu nền kinh tế trong đó có tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Tháng 6/2013 Chính phủ Chính phủ có quyết định 899 phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, trong đó có chủ trương chuyển diện tích đất trồng lúa hiệu quả thấp sang trồng cây ngắn ngày và nuôi trồng thủy sản có hiệu quả cao hơn trồng lúa.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã lập quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa giai đoạn 2014 – 2020 và đã được phê duyệt. Theo đó, 2014 – 2015 chuyển đổi khoảng 260.000 diện tích đất trồng lúa sang đất trồng cây ngắn ngày và nuôi trồng thủy sản; Từ năm 2016 – 2020 sẽ chuyển đổi thêm 500.000 ha đất trồng lúa. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có thông tư hướng dẫn về việc này.

Về phía Bộ TN&MT- bộ ủng hộ chủ trương chuyển đổi diện tích đất trồng lúa hiệu quả thấp sang trồng cây ngắn ngày và nuôi trồng thủy sản trong đó có cây thanh long như đại biểu nêu. Liên quan đến Thông tư 28, trong thông tư có xếp Thanh long là cây lâu năm. Vì vậy, khi trồng Thanh Long trên đất lúa phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo Điều 59 Luật Đất đai, do UBND huyện cho phép, hoặc UBND tỉnh cho phép nếu là tổ chức.

Bộ Tài Nguyên và Môi trường sẽ nghiên cứu ý kiến đại biểu, xem xét điều chỉnh thông tư 28 của Bộ đưa cây Thanh long ra khỏi danh mục cây lâu năm. Do cây Thanh long là cây dài ngày nhưng việc chuyển trả đất trồng lúa từ việc trồng cây Thanh long là khá đơn giản.

Bộ đề nghị Địa phương phải làm rõ chủ trương: (i) Chuyển một phần diện tích trồng lúa sang trồng cây hàng năm không phải bất kỳ cây trồng nào; (ii) Nuôi trồng thủy sản trên ruộng, không đào ruộng thành ao.

Triển khai đồng bộ các giải pháp từ việc lập quy hoạch, xây dựng kế hoạch hàng năm trên đất lúa; tổng kết các mô hình cây trồng khác canh tác trên đất lúa có hiệu quả cao; Đẩy mạnh dồn điền đổi thửa hình thành vùng sản xuất tập trung có quy mô; Cần cơ cấu lại hệ thống thu mua, chế biến đặc biệt là tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, có ý kiến cho rằng, nếu mở rộng diện tích trồng Thanh Long thị trường tiêu thụ sẽ như thế nào.

Đại biểu Huỳnh Nghĩa – đoàn Đà Nẵng phát biểu Chúng ta đã dành quá nhiều NS để chi thường xuyên – cho ộ máy, trả nợ, chi cho đầu tư phát triển khiêm tốn. Vì vậy tôi đề nghị Chính phủ cần tập trung ra soát nguồn chi, kiểm soát chặt chẽ việc bố trí vốn cho những công trình, chấm dứt tình trạng khởi công công trình nhưng không bố trí được nguồn vốn cân đối, cần khẩn trương rà soát tình hình thực tế giải ngân dự án đầu tư vốn ngân sách, xử lý nợ xấu, vấn đề sử dụng và giải ngân vốn TPCP, tháo gỡ khó khăn thủ tục quy trình giải ngân để phát huy tác dụng nguồn vốn ngân sách xem đây là nguồn kích thích tổng cầu. Bên cạnh đó cần xem xét sớm cải cách tiền lương.

Cũng theo đại biểu Nghĩa, chúng ta đã đặt ra mục tiêu phát triển ngành công nghiệp phụ trợ rất sớm, có nhiều hội thảo về chủ đề này. Nhưng sau 40 năm chúng ta chỉ mới làm được ốc vít,... Mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chỉ còn 5 năm nữa, tôi cho là khó mà đạt được mục tiêu. Đại biểu Huỳnh Nghĩa đề nghị, cần có lộ trình cụ thể với những giải pháp khả thi, ban hành chính sách kích thích doanh nghiệp đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ. Chính phủ cần tập trung cải cách thể chế kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, khắc phục cơ chế xin – cho, bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn vốn.

Đại biểu Lê Thị Yến – Phú Thọ - nhận xét thời gian qua nền kinh tế đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận như: kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng ước đạt cao nhất trong 3 năm trở lại đây và là năm đầu trong kỳ kế hoạch đạt mục tiêu tăng trưởng của năm, cán cân thương mại tiếp tục thặng dư, lạm phát được kiểm soát, vốn đầu tư phát triển đạt kết hoạch, tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp cao hơn, văn hóa xã hội có những chuyển biến tích cực, an sinh xã hội được bảo đảm, tăng cường và bảo vệ chủ quyền quốc gia …

Tuy nhiên, Đại biểu Phú Thọ cũng thừa nhận, thời gian qua vẫn còn những hạn chế của nền kinh tế, mặc dù đã được chỉ ra nhưng chậm khắc phục. Trong đó, một số vấn đề đang được cử tri và toàn xã hội rất quan tâm, lo lắng.

(i) Bội chi cao và không chỉ dành cho đầu tư phát triển, mà đã phải bù đắp chi thường xuyên. Nợ công tăng nhanh và đã gần đến giới hạn cho phép. Tỷ lệ nợ đến hạn phải trả so với tổng thu ngân sách (nếu tính cả khoản vay đáo hạn) thì đã vượt ngưỡng 25% mà chiến lược nợ công quy định, đe dọa sự ổn định của nền kinh tế trong dài hạn.

(ii) Hoạt động DN khó khăn, chất lượng nguồn nhân lực thấp, đời sống của người lao động có nhiều khó khăn, trật tự an toàn xã hội còn bất ổn. Những hạn chế cần này cần phân tích rõ hơn và sâu sắc hơn về nguyên nhân, trách nhiệm, thể hiện rõ hơn các giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Đại biểu Lê Thị Yến đề nghị Chính phủ bổ sung thêm số liệu so sánh tương quan với các quốc gia và nền kinh tế khác trong khu vực theo quan điểm hội nhập khu vực. Việc bổ sung này là cần thiết và giúp đánh giá đầy đủ hơn trình độ phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế, về mức độ sẵn sàng tham gia; khắc phục tụt hậu, tham gia đầy đủ các tổ chức liên kết khu vực theo đúng lộ trình đã cam kết.

Với các chỉ tiêu đặt ra cho năm 2015, mục tiêu về tốc độ tăng trưởng 6,2% là phù hợp, nhưng so với tương quan với kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2014, để đạt được mục tiêu tăng trưởng, năm 2015 cần huy động vốn đầu tư phát triển cao hơn 30% dự kiến.

Chỉ tiêu về cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển, cần tăng tỷ trọng các nguồn vốn ngoài ngân sách, phấn đấu huy động nhiều hơn nguồn đầu tư xã hội cho phát triển kinh tế.

Về nhiệm vụ và giải pháp năm 2015, cần tăng cường hơn công tác xây dựng pháp luật, sớm loại bỏ những quy định không còn phù hợp, gây cản trợ hạn chế việc tiếp cận nguồn lực và quyền tự do sản xuất kinh doanh của DN.

Bổ sung các cơ chế chính sách nhằm thu hút đầu tư mạnh mẽ và hiệu quả cho lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm của người nông dân. Bên cạnh đó, khi xây dựng các chính sách cần khảo sát tính toán kỹ lưỡng điều kiện thực hiện, đảm bảo tính khả thi của chính sách.

Cần tập trung hơn cho nhóm giải pháp dân số và nguồn nhân lực. Việt Nam đang ở trong thời kỳ có cơ cấu dân số vàng, với nhóm dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao. Đây cũng là cơ hội vàng trong việc huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế, tạo cơ hội tích lũy nguồn lực tương lại.

Do vậy, Chính phủ cần bổ sung các giải pháp cụ thể để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động dồi dào, giảm tỷ lệ thất nghiệp, gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế với chuyển dịch cơ cấu lao động, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, hướng đến tạo giái trị gia tăng và tăng năng suất lao động …

Thảo luận về đề án đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo, Đại biểu Lê Thị Yến cho rằng, chúng ta cần đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục, huy động nguồn lực đầu tư phát triển, trọng tâm tăng nguồn chi ngân sách cho giáo dục, đẩy mạnh xã hội hóa phát triển nhân lực, nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo nhu cầu của thị trường lao động và đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.

Cuối cùng, cần tích cực đầu tư vào khoa học kỹ thuật, tạo môi trường phù hợp để tận dụng chất xám từ nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo động lực phát triển lâu dài; làm chậm quá trình già hóa dân số, kéo dài hơn thời kỳ dân số vàng. Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội nhằm đối phó với xu hướng già hóa dân số như chính sách bảo hiểm xã hội, chăm sóc sức khỏe cho người lao động.

Đại biểu Hoàng Đăng Quang – Quảng Bình - phát biểu năm 2014, bức tranh kinh tế vĩ mô đã có sự ổn định hơn, nhiều chương trình trọng điểm quốc gia được triển khai, nhiều ngành, lĩnh vực đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực. Dự báo GDP cả năm đạt kế hoạch 5,8% theo Nghị quyết của Quốc hội. Chúng ta đã có nhiều nỗ lực, quyết tâm cao nhất để bảo vệ chủ quyền, biển đảo, môi trường an ninh, chính trị xã hội ổn định; đối ngoại được tăng cường tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KTXH và bảo vệ đất nước.

Tuy nhiên, nội lực của nền kinh tế còn nhiều khó khăn, sản xuất kinh doanh, nợ xấu, nợ công, nợ đọng xây dựng, tổng cầu thấp. Các vấn đề về lao động, việc làm, đời sống, thu nhập, những bất cập trong giáo dục, y tế … đều là những vấn đề cần đặc biệt quan tâm hiện nay.

Đại biểu tỉnh Quảng Bình đề nghị Chính phủ và các cơ quan chính sách đánh giá chính xác các chỉ tiêu đạt được, phản ánh đúng tình hình khó khăn của đất nước. Đồng thời cân nhắc thêm về tổng vốn đầu tư phát triển, bội chi ngân sách nhà nước, một số chỉ tiêu đạt thấp và có khả năng không đạt … Đó là những áp lực rất lớn đối với nền kinh tế của đất nước.

Về kế hoạch năm 2015, cần cân nhắc tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Nếu tình bình quân 4 năm, từ 2011-2014 thì tổng vốn đầu tư đạt khoảng 31,4% GDP. Như vậy để đạt tăng trưởng GDP 6,2% vào, thì nguồn vốn đầu tư phát triển của năm 2015 ít nhất bằng mức bình quân của 4 năm (31,4%). Đại biểu Hoàng Đăng Quang đưa ra 2 nhóm giải pháp cơ bản:

Thứ nhất, thực trạng sản xuất kinh doanh của DN và người dân còn nhiều khó khăn, số DN phá sản, giải thể, ngừng hoạt động tăng khá lớn; đã tác động tiêu cực đến tình hình lao động, việc làm và thu ngân sách. Cả nước có khoảng 97% DN vừa và nhỏ nhưng hiệu quả kinh doanh chưa cao, sức cạnh tranh còn yếu, môi trường kinh doanh còn nhiều vướng mắc.

Những năm qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ DN vừa và nhỏ. Gần đây, Chính phủ đã có những chỉ thị giải quyết khó khăn, vướng mắc nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh của DN. Đó là một cố gắng lớn. Song vấn đề đặt ra là DN vẫn gặp nhiều khó khăn.

Nguyên nhân sâu xa của vấn đề là thể chế và sự tác động của chính sách đối với DN. Chính sách đã ban hành nhiều nhưng DN vẫn chưa tận dụng một cách đầy đủ và toàn diện. Một số chính sách còn mang tính khuyến khích chung như thuế, lãi suất, thị trường, đất đai …

Đề nghị Quốc hội xác định mục tiêu tập trung tháo gỡ khó khăn cho DN là chủ đề hành động của năm 2015 như chính sách miễn giảm thuế, lãi suất vay … Đặc biệt cần tăng tính khả thi để đảm bảo các chính sách hỗ trợ thực sự đến được với DN.

Trong bối cảnh tổng cầu suy giảm, cần có chính sách đẩy mạnh kích thích tiêu dùng, khuyến khích đầu tư khu vực tư nhân, hỗ trợ DN tìm kiếm thị trường. Đồng thời, cần phải rà soát để cơ cấu, tính toán lại thị trường xuất nhập khẩu, tránh lệ thuộc quá mức vào một thị trường, một đối tác.

Vừa qua xuất khẩu một số mặt hàng như cao su, nông lâm sản còn lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc nên gây ra nhiều khó khăn sau khi TQ hạ đặt giàn khoan vào thềm lục địa nước ta.

Đề nghị Chính phủ ưu tiên vốn xử lý dứt điểm các khoản nợ xây dựng cơ bản, đẩy nhanh giải ngân các gói hỗ trợ DN như gói tín dụng 3.000 tỷ đồng. Vì hiện nay các gói tín dụng này đến với DN vẫn còn chậm.

Về phát triển kinh tế vùng, nhìn chung các vùng kinh tế trọng điểm đã có tốc độ tăng trưởng tương đối khá, song đối với các vùng khó khăn còn chậm phát triển, nhiều định hướng chưa được triển khai do nguồn lực khó khăn, thiếu cơ chế chính sách ưu đãi. Do vậy, Chính phủ cần sớm có chính sách đặc thù đối với các vùng khó khăn, kêu gọi các dự án hỗ trợ…

Đại biểu Nguyễn Thị Nghĩa – Hải Phòng - nhận định mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhất là những khó khăn nội tại của nền kinh tế trong nước và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới … nhưng tình hình KTXH nước ta trong thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực với những điểm sáng đáng tự hào. Tình hình KTXH năm 2014 có nhiều chuyển biến tích cực, tăng trưởng được đẩy mạnh, lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, trật tự an toàn xã hội được giữ vững …

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả trên, còn nhiều vấn đề tồn tại, hạn chế trong phát triển KTXH. 

Về tái cơ cấu nền kinh tế, đã được triển khai tích cực, đúng hướng bằng nhiều biện pháp cụ thể, tích cực. Một số lĩnh vực đã có những kết quả bước đầu, song tái cơ cấu vẫn chậm và chưa có nhiều giải pháp mang tính đột phá. Tái cơ cấu chưa có chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản, hiệu quả như Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra. Do vậy, Chính phủ cần đẩy mạnh các đề án tái cơ cấu, với trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015.

Việc hoàn thiện tái cơ cấu Tập đoàn, Tổng công ty không chỉ có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển của đất nước , mà trước hết là đối với các địa phương, nơi có hoạt động của Tập đoàn, tổng công ty trên địa bàn. Cụ thể, Đại biểu Nghĩa cho rằng, việc tái cơ cấu Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam và Tổng công ty hàng hải VN có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của Thành phồ Hải Phòng và vùng duyên hải Bắc Bộ.

Về vấn đề nợ công ở nước ta đang có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây, nguyên nhân chủ yếu do bội chi ngân sách nhà nước, tăng vay nợ, phát hành trái phiếu, đầu tư … Thực tế, nợ công là bài toán mà đa số các quốc gia đều phải trải qua trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kể cả các nước phát triển hiện nay vẫn đang phải đối mặt với vấn đề nợ công cao.

Đối với nước ta, trong điều kiện khủng hoàng kinh tế, mặc dù nguồn thu bị giảm sút nhưng vẫn phải giảm thu đối với các doanh nghiệp để hỗ trợ và đảm bảo sự ổn định của DN. Đồng thời phải dành một phần lớn ngân sách để đảm bảo an sinh xã hội, muốn phát triển chúng ta phải vay nợ nước ngoài và phát hành trái phiếu, tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống cầu cảng, đường giao thông, bệnh viện. Nhiều dự án quan trọng đã được khởi công, khánh thành từ nguồn vốn vay và tạo ra những thay đổi to lớn, là động lực quan trọng cho sự phát triển của đất nước.

Theo kiến nghị của Đại biểu Hải Phòng, trước tình trạng nợ công hiện nay, đề nghị Chính phủ cần thực hiện quyết liệt các giải pháp đã được cụ thể hóa tại Nghị định 958 ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2011-2020.

Đồng thời, cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa việc cân đối ngân sách, cơ cấu lại nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước để từng bước giảm bội chi ngân sách so với GDP. Thực hiện nghiêm quản lý tài khóa, tránh tình trạng thâm hụt ngân sách gây ảnh hưởng bất lợi đến nợ công; điều hành chặt chẽ ngân sách, phấn đấu tăng thu để tăng chi trả nợ, giám sát chặt chẽ các khoản vay để cho vay lại, các khoản bảo lãnh cho doanh nghiệp; giải quyết triệt để tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, tham nhũng …

Về tăng cường liên kết các vùng lãnh thổ để phát triển, là chủ trương đúng đắn và cần thiết. Những năm vừa qua, giải pháp này đã được thực hiện và đạt nhiều kết quả quan trọng, phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.

Tuy nhiên, so với yêu cầu, hiệu quả liên kết các vùng lãnh thổ chưa cao, chưa có những chính sách hợp lý tạo điều kiện cho các địa phương trọng điểm làm đầu tàu kinh tế. Vì vậy, Đại biểu Nguyễn Thị Nghĩa đề nghị Chính phủ cần tăng cường tính hiệu quả trong liên kết vùng, điều chỉnh chính sách liên kết vùng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của các địa phương.

Một trong những mục đích của liên kết vùng là hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, tạo đầu tàu thúc đẩy các địa phương khác cùng phát triển. Chính phủ cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ hiệu quả hơn nữa đối với các địa phương được xác định là vùng kinh tế trọng điểm để các địa phương này bứt phá, có điều kiện thúc đẩy cả vùng cùng phát triển.

Cụ thể, đối với TP Hải Phòng, được xác định là một trong những vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, đề nghị Chính phủ, Quốc hội nhân việc sửa đổi ngân sách nhà nước, cho phép được trích một tỷ lệ từ nguồn thu xuất nhập khẩu trên địa bàn để đầu tư phát triển. Đó chính là động lực, là điều kiện để nuôi dưỡng nguồn thu đạt hiệu quả cao hơn.



>>> [Họp Quốc hội] Nỗi lòng người nông dân trồng thanh long ở Bình Thuận


>>>[Họp quốc hội] Trực tiếp: Thủ khoa làm thợ mộc còn kỹ sư chạy xe ôm, do đâu?


>>> [Họp Quốc hội] Việt Nam phải có ý thức “tốt nghiệp” ODA


Trường Giang - Nguyệt Quế

huongtt

Tài chính Plus

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên