Kinh tế Việt Nam năm 2008 nhìn từ CPI và GDP
Kinh tế Việt Nam 2008 đã không còn nằm ngoài dòng chảy của kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997.
Nền kinh tế đang từ mức phát triển quá nóng rồi đột ngột phải hãm phanh, lo ngại lạm phát vừa được đẩy lùi đã phải đối phó với khả năng giảm phát khi cuối năm nền kinh tế thế giới đồng loạt rơi vào suy thoái.
GDP đã không thể về đích
GDP của Việt
Trước đó, ngày 22/4, Chính phủ tuyên bố điều chỉnh GDP năm 2008 từ mức 8,5% - 9% xuống 7%.
Già nửa đầu năm 2008, lạm phát là vấn đề số 1 của chính sách kinh tế. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng liên tục leo thang từ tháng 2, đạt đỉnh điểm vào tháng 5 (tăng 3,19%).
|
Hội tụ đầy đủ các nguyên nhân từ lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí
đẩy và dư thừa tiền tệ. Chính phủ đã phải ra các biện pháp khắc phục cho từng
nguyên nhân.
Lạm phát chi phí đẩy và nhập khẩu lạm phát, thời kỳ này đồng
USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối.
Giá dầu thô tháng từ mức
89,4 USD thùng vào tháng 12/2007 lên 135 USD đến 147 USD/ thùng, giá phôi thép tăng
khiến các doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu sợ giá có thể tăng lên tiếp.
Nhập siêu
Mức tăng của CPI vào tháng 5 cũng đạt mức đỉnh điểm của năm.
Chính phủ phải nới biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% vào ngày 10/03/2008 và từ 1% lên 2% vào ngày
27/06/2008, tận dụng sự trượt giá VND so USD thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu.
|
Lạm phát do cầu kéo
Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ
đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt
21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006.
Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt
khoảng 12% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng,
bằng 5% GDP.
Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng
kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006.
Đà tăng trưởng đó khiến lượng tiền đồng
trong nền kinh tế tăng lên, cao hơn so với sức hấp thụ của nền kinh tế, gia tăng
áp lực lạm phát.
Lạm phát do thừa tiền, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán
và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006.
Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7%
so với 31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so
với năm 2006.
Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là
do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên
tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP.
Để duy trì tỷ giá USD, Ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ
ngoại hối từ 11,5 tỉ USD (năm 2006) lên 21,6 tỉ USD (năm 2007) và đẩy một lượng
lớn nội tệ ra thị trường.
Chính phủ đã thực hiện cắt giảm đầu tư công, hạn chế tín
dụng bằng việc buộc NHTM phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, khống chế dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế năm 2008
xuống 30%.
8 nhóm giải pháp hạn chế lạm phát (ngày 7/5/2008)
1. Thắt chặt tiền tệ; |
5. Triệt để tiết kiệm trong sản
xuất và tiêu dùng; |
Đến chỉ số giá tiêu dùng tăng trưởng âm, xuất khẩu sụt giảm và gói kích cầu 6 tỷ USD
(Số liệu Tổng cục hải quan)
Như giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giãn thời gian nộp thuê thu nhập doanh nghiệp, tạm hoàn 90% thuế GTGT đầu vào dù chưa có chứng từ thanh toán, tăng thuế nhập khẩu và hạ thuế xuất khẩu một số mặt hàng nhằm ổn định đầu vào sản xuất, khuyến khích xuất khẩu.
Trước đó, ngân hàng nhà nước đã liên tục có các động thái
giảm lãi suất cơ bản kéo trần lãi suất cho vay xuống, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn
để sản xuất kinh doanh.
Đến ngày 22/12, lãi suất cơ bản hạ xuống còn 8,5% về gần bằng mức đầu năm là 8,25%, sau khi lên cao nhất ở mức 14% năm.
Đồng thời hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất cho vay tái chiết khấu, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc,… để hỗ trợ vốn cho ngân hàng.
Các nước lần lượt công bố các gói kích cầu hỗ trợ nền kinh tế. Mỹ 3/10/2008 thông qua kế hoạch gói 700 tỷ USD để cứu ngành ngân hàng. Châu Âu kế hoạch 267 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh tế (ngày 12/12/2008).
Trung Quốc, kế hoạch 586 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh
tế.
Không nằm ngoài dòng chảy kinh tế thế giới, ngày 24/12/2008, trong buổi họp báo của Văn phòng Chính phủ, nhiệm vụ trọng tâm được Chính phủ đề ra là
“ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng 6,5%, giải quyết tốt các vấn
đề an sinh xã hội”.
Chính phủ dự định triển khai gói kích cầu 6 tỷ USD, trong đó 1 tỷ USD dùng để hỗ trợ lãi suất cho vay của các ngân hàng với mức 4%.
Sự kiện và các con số năm 2008 1. CPI cả
nước tăng 19,9% so với tháng 12/2007. Chỉ
số giá trung bình tăng 22,97% so với năm 2007. kiềm chế. GDP cả năm đạt 6,23% chưa đạt kế
hoạch đề ra 3. FDI thu
hút 64 tỷ USD, gấp 3 lần cùng kỳ 2007. Giải ngân đạt 4. Giá
xăng, đã từng vọt lên mức 19.000 đồng/lít (ngày) khi giá dầu thế giới leo thang.
Liên bộ tài chính công thương đã từng tuyên bố trích 10.000 tỷ đồng bù lỗ cho DN
nhập khẩu xăng dầu. 5. Đưa nhiều
mỏ dầu vào khai thác: 19/12 Sông Đốc, 21/11 Sư tử vàng (65.000 thùng/ngày), 3/8
mỏ Cá ngừ vàng (20.000 thùng và 50 triệu bộ khối khí đốt/ngày). 6. Đã có
11 măt hàng XK đạt tỷ 1USD: dầu thô (10,45 tỷ USD), dệt may (9,1 tỷ), thủy sản
(4,56 tỷ), gạo (2,9 tỷ), sản phẩm gỗ (2,78 tỷ), hàng điện tử, vi tính và linh
kiện (2,7 tỷ), cà phê (2,02 tỷ), cao su (1,6 tỷ), than đá (1,44 tỷ), dây cáp
điện (1,01 tỷ). 7. Dự án
FDI lớn nhất được đăng ký năm 2008 thuộc về tập đoàn 9. Ngày 21/11 Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã
tuyên bố kết quả rà soát lần thứ 3 đối với hàng dệt may nhập khẩu từ
Việt Sản phẩm lò xo không bọc xuất xứ
Việt Cuối tháng 10, Hiệp hội Công nghiệp
giày Brazil - Abicalcado đã nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá đối với
các loại giày Việt Nam xuất khẩu sang Brazil. 10. Thêm nhiều
nhà máy hòa lưới điện quốc gia Ngày 24/4, nhà máy thủy điện Sê San 3 (tại
Gia Lai – Kon Tum) công suất lắp máy 130
MW, điện lượng 611,23 triệu Kwh/ năm. Ngày 22/5 tổ máy số 1 nhà máy khí điện Nhơn Trạch 1 (tỉnh Đồng Nai) sẽ
được phát điện ở mức công suất thiết kế là 150
MW, sau 1 tháng sẽ tăng lên 300 MW và
sau 1 năm sẽ đạt 450 MW. Ngày 11/10/2008, Công ty cổ phần thủy điện A Vương
chính thức vận hành tổ máy số 1 (Nhà máy thủy điện A Vương) công suất 105
MW. Ngày 25.11, 280MW Thuỷ điện Buôn Kuốp. Ngày 15/12, tổ máy số 3, tổ máy cuối cùng của
Nhà máy thủy điện Tuyên Quang đã chính thức phát điện và hòa vào lưới điện quốc
gia. Nâng tổng công suất của cả nhà máy đạt công suất thiết kế là 342 MW. Ngày 27/12, 1.500 MW điện từ hai nhà máy Cà
mau 1&2 hòa lưới điện quốc gia |
Thanh Thu