Sự khẳng định
tính khách quan của số liệu Số
liệu ước tính xuất nhập khẩu
quí 1-2009(1) của Tổng cục Thống
kê cho thấy, trong khi nhập khẩu đạt
11,8 tỉ đô la Mỹ - giảm 45% thì xuất
khẩu (đạt 13,5 tỉ đô la Mỹ) tăng 2,4% so cùng kỳ. Biến động trái chiều
và bất thường đã đưa đến kết
quả xuất siêu 1,647 tỉ đô la Mỹ.
Qua số
liệu và phân tích chi tiết xuất nhập
khẩu theo từng nhóm mặt hàng cho thấy, nguyên nhân xuất siêu là do tái xuất vàng. Nếu tách riêng yếu tố này, xuất
khẩu hàng hóa chỉ đạt 11,2 tỉ
đô la Mỹ - giảm 15% so với cùng kỳ, cán cân thương mại nhập
siêu 641 triệu đô la Mỹ.
Trong bối
cảnh khó khăn của nền kinh tế
thế giới và trong nước, đã có những ý kiến nghi ngờ
tính minh bạch, chuẩn mực của
phương pháp thống kê, thậm chí nghi ngờ tính khách quan của Tổng cục
Thống kê khi công bố số liệu.
Để làm
rõ vấn đề này, cần xem xét phương
pháp thống kê hiện hành có dựa trên các chuẩn mực quốc
tế và đặc thù của nước
ta hay không. Phương pháp
luận về thống kê xuất
nhập khẩu hàng hóa, thống kê tài khoản quốc gia (SNA), cán cân thanh toán quốc tế (BOP) của
Liên hiệp quốc và Quỹ Tiền
tệ quốc tế IMF(2) đều
thống nhất khái niệm và cách tính: vàng được chia làm hai loại: vàng tiền tệ (monetary-gold) và phi tiền tệ,
hay còn gọi là vàng hàng
hóa (non-monetary gold).
Vàng tiền
tệ là vàng do các cơ quan có chức năng điều hành chính sách tiền tệ (ở
Việt Nam là Ngân hàng Nhà
nước - NHNN) sở hữu và nắm
giữ làm tài sản dự trữ.
Khi cơ quan này mua (nhập khẩu) hoặc
bán (xuất khẩu) vàng với cơ quan điều
hành chính sách tiền tệ của một
nước khác hoặc một tổ
chức tiền tệ quốc
tế (như IMF) thì đó là giao dịch xuất nhập
khẩu vàng tiền tệ, được
hạch toán cả hai bút toán trong cán cân
tài chính/tài sản dự trữ trong BOP.
Theo đó, tài sản
dự trữ không thay đổi, chỉ chuyển
từ việc giảm ngoại
tệ và tăng phần nắm giữ
bằng vàng (nếu mua vàng), ngược lại là chuyển
từ việc tăng ngoại tệ và giảm
phần nắm giữ bằng
vàng (nếu bán vàng). Xuất nhập khẩu
vàng tiền tệ không được thống kê vào xuất
nhập khẩu hàng hóa.
Vàng phi tiền
tệ là vàng được xuất nhập
khẩu bởi các doanh nghiệp/ngân hàng thương mại cho mục
đích sản xuất, kinh doanh, lưu giữ giá trị
và xuất nhập khẩu vàng loại
này được thống kê vào xuất nhập khẩu
hàng hóa, ngay cả trong
trường hợp do cơ quan điều
hành chính sách tiền tệ nhập/xuất
khẩu với một doanh nghiệp
hoặc ngân hàng thương mại nước
ngoài là người không thường trú để làm tài sản dự trữ,
đây là quá trình tiền tệ hóa/phi tiền tệ hóa vàng (monetization/demonetization).
Từ năm
1998, phương pháp thống kê xuất nhập khẩu
hàng hóa do Tổng cục Thống kê ban hành, phối
hợp với Tổng cục
Hải quan thực hiện đã dựa
trên các chuẩn mực quốc tế
nói trên, theo đó xuất nhập khẩu vàng phi tiền
tệ được tính vào số liệu thống
kê xuất nhập khẩu hàng hóa và công bố định
kỳ hàng tháng, quí, năm.
Hai năm qua, hoạt
động xuất nhập khẩu
vàng phi tiền tệ gắn liền
với những biến động
trong, ngoài nước và được NHNN quản lý trên nguyên tắc bảo đảm
quyền và hiệu quả kinh doanh của
các doanh nghiệp/tổ chức tín dụng,
ổn định thị trường
trong nước.
Lượng
vàng hàng hóa đã thống kê
vào nhập khẩu và đóng góp vào mức nhập siêu, khá cao trong năm 2007, những tháng đầu năm 2008. Vào thời điểm giá vàng thế
giới cao hơn giá trong nước (có lợi về giá), lại
được các doanh nghiệp tái xuất một phần,
đương nhiên cần được thống
kê vào xuất khẩu.
Cũng cần
lưu ý: hàng xuất khẩu nói chung không chỉ gồm
hàng hóa được sản xuất tại
Việt Nam mà còn bao gồm cả hàng đã nhập
khẩu để tiêu dùng trong nước nhưng vì nhiều
lý do lại được tái xuất nguyên dạng hoặc qua gia công sơ
chế. Trong khi đó các
hàng hóa tạm nhập và phải tái xuất
sau thời gian quy định đã không thuộc phạm vi thống
kê.
Nhiều
nền kinh tế, đặc biệt
với Singapore, Hồng Kông, giao dịch loại này khá lớn
và được thống kê vào xuất khẩu, phù hợp
với chuẩn mực, thể
hiện đúng sự cân đối vào/ra của
luồng hàng lưu chuyển giữa
nước ta với thế giới.
Bức tranh về cán cân thương mại sẽ
méo mó nếu như nó không phản ánh tác động của luồng
hàng hóa vật chất đã nhập vào trước
đó, chu chuyển trong khu
vực sản xuất kinh doanh nội
địa và lại được đưa
ra khỏi phạm vi quốc gia.
Ở nước ta, đông đảo người sử
dụng số liệu, trong đó có cơ
quan tổng hợp cán cân thanh toán quốc tế và thống
kê tài khoản quốc gia - đều được cung cấp
đầy đủ thông tin để tính toán, phân tích tác động của các luồng
hàng hóa xuất nhập khẩu đối
với nền kinh tế, cụ thể
là số liệu và phân tích tình hình quí
1-2009 của Tổng cục Thống
kê công bố trên các báo
cáo và trang tin điện tử www.gso.gov.vn.
Ở Việt Nam, cũng như các nước vàng được
sử dụng cho nhiều mục đích: sản
xuất, kinh doanh và lưu giữ giá trị.
Không chỉ với chức năng duy nhất
là phương tiện thanh toán, thường hay diễn ra ở khu vực
tiêu dùng của dân cư. Vàng được mua đi bán lại phổ biến
giữa các doang nghiệp, tổ chức
tín dụng và cá nhân trên
thị trường, tạo ra giá trị
tăng thêm cho hoạt động thương nghiệp.
Ở khía
cạnh vật chất nó cũng giống
như các hàng hóa thông thường, nhưng ở
khía cạnh chủ thể nắm
giữ giá trị, không thể coi lượng vàng do doanh nghiệp/tổ
chức tín dụng xuất nhập
khẩu, không do NHNN (cơ quan điều hành chính sách tiền tệ) nắm
giữ, nằm trong khối lượng tiền
tệ quốc gia.
Ngay cả
khi NHNN có mua lại số ngoại tệ
do các đơn vị tái xuất vàng bán lại
(nếu có) - tương tự việc
các doanh nghiệp xuất khẩu thu ngoại
tệ và bán cho NHNN - thì
đây cũng là giao dịch mua
bán thông thường giữa hai thực thể pháp nhân thường
trú của Việt Nam, không liên quan đến xuất nhập
khẩu hàng hóa và cán cân
thanh toán quốc tế để coi là số
vàng phi tiền tệ sau khi tái xuất đã biến thành vàng tiền
tệ.
Phương
pháp thống kê dựa trên các chuẩn mực quốc
tế, phản ánh đúng thực tiễn Việt
Nam luôn được ngành thống kê coi là cơ sở cho sự
thống nhất và khả năng so sánh quốc
tế của số liệu,
cũng chính là giữ được tính khách quan, đặc biệt khi số
liệu thống kê của Việt
Nam đã tham gia hòa nhập
với các hệ thống phổ
biến số liệu chung của
thế giới.
Theo Lê Thị Minh Thuỷ
TBKTSG