Việt Nam có đến trên 70% công nghệ nhập từ nước ngoài thuộc thế hệ những năm 60-70, tỷ lệ đầu tư đổi mới chỉ bằng 1/20 Hàn Quốc
Ảnh minh họa
Với thực trạng trình độ công nghệ và hoạt động đổi mới công nghệ như vậy, theo Bộ Công thương các doanh nghiệp nước ta chưa đủ năng lực để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh cao.
Theo dự thảo báo cáo đánh giá thực trạng thi hành chính sách pháp luật và thực trạng phát triển công nghiệp (Dự án Luật phát triển công nghiệp) Bộ Công thương công bố, hiện nay, phần lớn doanh nghiệp công nghiệp nước ta vẫn đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2-3 thế hệ.
Trong đó, có đến 76% thiết bị máy móc, dây chuyền công nghệ nhập từ nước ngoài thuộc thế hệ những năm 1960-1970, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% thiết bị được tân trang lại. Trong cơ cấu tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp ngành chế biến, chế tạo, công nghệ thấp và trung bình chiếm đến hơn 60%. Tỷ trọng công nghệ cao trong các doanh nghiệp nhà nước ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở mức thấp và ngày càng giảm, trong khi tại các doanh nghiệp FDI ngày càng tăng.
Mặc dù công nghệ, thiết bị phục vụ sản xuất lạc hậu nhưng các doanh nghiệp công nghiệp, gồm cả những doanh nghiệp nhà nước lớn cũng chưa thực sự quan tâm đầu tư thoả đáng cho đổi mới công nghệ, cũng như không có khả năng, không đủ nguồn lực đầu tư cho công nghệ.
Tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam là dưới 0,5% doanh thu (trong khi Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc 10%). Tỷ lệ đổi mới máy móc, thiết bị hàng năm chỉ đạt khoảng 10% trong 5 năm vừa qua (các nước khác trong khu vực tỷ lệ tương ứng là 15-20%).
Với thực trạng trình độ công nghệ và hoạt động đổi mới công nghệ như vậy, theo Bộ Công thương các doanh nghiệp nước ta chưa đủ năng lực để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh cao.
Trình độ cơ khí chế tạo (là trụ cột của sản xuất công nghiệp), đặc biệt là cơ khí chính xác còn lạc hậu so với nhiều nước từ 2-3 thế hệ.
Cụ thể, có đến 60-70% ở trình độ công nghệ những năm 1950 (dùng máy công cụ chạy bằng động cơ điện, điều khiển gia công do công nhân thực hiện), chỉ có 20-30% ở trình độ công nghệ sử dụng máy công cụ điều khiển bằng máy tính (CNC) và máy công cụ điều khiển số (NC) song chủ yếu sử dụng máy điều khiển số ở trình độ những năm 1950-1960.
Tỷ lệ máy móc được điều khiển bằng máy tính thấp, làm giảm khả năng tận dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Hiện nay, ngành cơ khí chưa làm chủ được công tác thiết kế đối với các dự án công nghiệp có độ phức tạp cao như nhà máy nhiệt điện, alumin, dầu khí, hóa chất, lọc hóa dầu…
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, hiện nay, trong cơ cấu việc làm ngành công nghiệp, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm đến hơn 90% nhưng chủ yếu trong các ngành có công nghệ thấp và trung bình.
Năng suất lao động (NSLĐ) trong các ngành công nghiệp chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt là trong nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Tốc độ tăng NSLĐ trung bình của cả nước giai đoạn 2011-2020 ước tăng 5,1% (trong đó giai đoạn 2011-2015 tăng 4,35%; giai đoạn 2016-2020 ước tăng 5,85%). Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất lao động trong công nghiệp trong giai đoạn này chỉ đạt 2,71%, trong đó, giai đoạn 2016-2020 ước chỉ tăng 1,5%, tăng thấp nhất so với các ngành kinh tế và so với cả giai đoạn 2011-2015 (tăng 3,92%).
Điều đáng quan ngại là NSLĐ của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thấp hơn rất nhiều so với các phân ngành công nghiệp khác cũng như thấp hơn mức NSLĐ chung của nền kinh tế.