Ông Nguyễn Xuân Thành: Chúng ta không cưỡng lại quá trình thoái nợ
Cả Chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng muốn cưỡng lại quá trình thoái nợ tự nhiên dù tỷ lệ tín dụng/GDP chững lại và thậm chí giảm xuống. Chúng ta nên chọn cách đi mạnh mẽ, chấp nhận tổn thất, có thể tổn thất
Ngày 16/08/2012 vừa
qua, tại Hội nghị nhà đầu tư năm 2012 do Báo Nhịp cầu Đầu tư tổ chức, chúng tôi
đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Xuân Thành – Giám đốc Chính sách công,
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Việt Nam về “Cơ cấu vốn của doanh nghiệp
Việt Nam: Phụ thuộc vào nợ và những hệ lụy”. Đây cũng là phần thuyết trình của
ông Thành tại hội nghị này.
Gánh nặng nợ - nhóm doanh nghiệp nào đang vay nợ nhiều nhất?
Các cuộc thảo luận gần đây đều tập trung vào hệ thống tài chính, tuy nhiên, tình hình tài chính của các doanh nghiệp là một thái cực khác chúng ta cần phải xem xét. Theo ông Nguyễn Xuân Thành, trong thời gian qua, các doanh nghiệp này đã tăng đòn bẩy tài chính lên rất nhiều. Đến cuối quý II, tổng nợ phải trả/vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Việt Nam rất cao.
Với 647 doanh nghiệp niêm yết không kể các tổ chức tài chính trên 2 sàn chứng khoán, chỉ số tổng nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân là 1,53 – năm 2007 với 114 doanh nghiệp chỉ số này là 1,2.
Trong khi Trung Quốc, trong thời gian qua tỷ lệ này đã tăng lên liên tục nhưng cũng chỉ ở mức 1,06 (năm 2011); Hoa Kỳ trước khủng hoảng chỉ số này đạt trên 2, nhưng sau khủng hoảng 2008, sau quá trình tái cấu và thoái nợ, trước sức ép của thị trường và ngân hàng tỷ lệ này hiện khoảng 1,2.

Trên sàn giao dịch chứng khoán của Việt Nam, các công ty xây dựng, bất động sản là nhóm doanh nghiệp có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu cao nhất, ở mức 2,07%; các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và dịch vụ có tỷ lệ này dưới 1; còn các doanh nghiệp nhà nước tỷ lệ 1,71.
Đấy là hiện trạng của các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy khi chúng ta bất ổn vĩ mô, lãi suất ngân hàng cao, gánh nặng lên doanh nghiệp sẽ tăng cao.
Thoái nợ muốn cưỡng lại – có được không?
Nhìn vào kinh nghiệm các nước khu vực khi bị khủng hoảng tài chính, các nền kinh tế trên thế giới dưới tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, họ đều phải trải qua quá trình thoái nợ.
Về mặt tự nhiên, khi bị một gánh nặng nợ quá lớn đối với nền kinh tế, quy luật đòi hỏi phải giảm nợ, tái cấu trúc nợ. “Anh leo núi, dùng đòn bẫy nợ. Bây giờ anh phải xuống núi, giảm đòn bẫy nợ” - Đây là còn đường duy nhất để anh trở lại con đường lành mạnh tài chính, trở lại với xuất phát điểm để gây dựng lại cả ở doanh nghiệp lẫn nền kinh tế, ông Thành nhấn mạnh.
Đương nhiên trong ngắn hạn khi tất cả đều phải thoái nợ, đồng nghĩa là phải tiết kiệm, không được đầu tư mạnh mẽ, không đầu tư dàn trải, không trả cổ tức cao, dùng lợi nhuận để trả nợ...
Nhưng khi tất cả mọi người đều làm như vậy, tổng cầu sẽ giảm, trước mắt nó chưa tác động đến tăng trưởng kinh tế như chúng ta nhìn thấy mà ngay trước đó là doanh nghiệp kinh doanh khó khăn hơn, hàng tồn kho nhiều hơn. Vậy nên, cả Chính phủ, doanh nghiệp và ngân hàng muốn cưỡng lại quá trình tự nhiên này dù cho tỷ lệ tín dụng/GDP chững lại và thậm chí giảm xuống.
“Chúng ta nên chọn cách đi mạnh mẽ, chấp nhận tổn thất, có thể tổn thất”
Nhưng cái khổ của cưỡng lại, khi mà anh đạt đến đòn bẫy nợ đó thì không thể dừng được, hoặc là giảm, hoặc tiếp tục tăng. Nếu vay nợ quá nhiều thì hoặc là phải thanh lý tài sản, tái cơ cấu để giảm nợ; hoặc phải vay tiếp, lấy nợ mới trả nợ cũ.
Ông Thành chia sẻ: theo quan điểm của chúng tôi, kể cả phía doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hay cả Chính phủ, nên tạo điều kiện, bắt đầu con đường thoái nợ, đưa con số tỷ lệ tổng nợ phải trả/vốn chủ sở hữu 1,53 giảm xuống.
Nếu để tự nhiên, muốn giảm tỷ lệ này chúng ta cần thời gian bằng khoảng thời gian đã làm tăng nó. Giống như khi leo núi, chúng ta mất bao nhiêu năm leo núi, chúng ta sẽ phải mất từng đấy thời gian để xuống núi.
“Đối với nền kinh tế Việt Nam, thời gian đó là một cái giá phải trả quá lớn. Nhưng theo tôi, chúng ta nên chọn cách đi mạnh mẽ, chấp nhận tổn thất, có thể tổn thất, khơi thông dòng vốn từ những dòng nợ xấu, từ những khoản vay, từ những doanh nghiệp không còn đủ khả năng nuôi mình, chuyển sang những bộ phận năng động hơn của nền kinh tế.”
Trên quan điểm thay vì cố gắng nuôi nó, cố gắng đảo ngược tiến trình này, chúng ta nên đẩy nhanh quá trình thoái nợ xuống mức bền vững hơn.
Làm cách nào để đẩy nhanh quá trình thoái nợ và tiến đến phục hồi kinh tế?
Theo ý kiến của ông Xuân Thành, về phía nhà nước, 2 mảng mà nhà nước cần phải làm quyết liệt hơn là doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tài chính. Bởi tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu của DNNN là cao nhất; 77% tín dụng cho doanh nghiệp, khoảng 2 triệu tỷ đồng, trong đó có trên 400.000 tỷ đồng danh cho doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, nhà nước có thể giúp các DNNN giảm tỷ lệ nợ.
Nhưng giảm bằng cách nào? Bởi bản thân các DNNN cũng đang khó khăn, không còn dòng tiền. Vấn đề trả nợ của DNNN theo tôi là bán tài sản, đẩy mạnh cổ phần hóa, bán một phần tài sản đối với doanh nghiệp đã cổ phần hóa, dùng nguồn tiền này trả nợ xấu.
Chúng ta không bắt buộc phải bùng nổ tín dụng với ngân hàng, vẫn có thể kiềm chế tín dụng. Nhưng khi DNNN dùng tiền bán/thanh lý tài sản trả nợ, xử lý nợ xấu, ngân hàng thu hồi được nợ, nguồn tín dụng được mới khai thông này có thể dùng cho doanh nghiệp khác: các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được tiếp cận vốn.
Sự kết hợp giữa doanh nghiệp nhà nước và khu vực tài có thể đẩy nhanh quá trình thoái nợ xuống mức bền vững. Giảm được nợ khu vực DNNN sẽ tác động mạnh nhất đến quá trình thoái nợ.
Bản thân ngân hàng nếu không có sự quyết liệt của Chính phủ, các ngân hàng cũng không đẩy nhanh đòi nợ các doanh nghiệp nhà nước, cũng như “ngại” xử lý tài sản thế chấp của DNNN.
Vậy Nhà nước có thể làm gì cho khu vực dân doanh?
Đối với doanh nghiệp dân doanh, điều nhà Nhà nước có thể làm được: khung pháp lý, tính hữu hiệu của pháp lý trong việc chúng ta đẩy mạnh áp dụng luật phá sản, thúc đẩy M&A doanh nghiệp, hình thành các tổ chức mua bán tài sán/nợ tư nhân và tạo khung pháp lý thông thoáng cho các tổ chức này hoạt động.
Trên quan điểm nghiên cứu chính sách công của chúng tôi, chúng ta không cưỡng lại quá trình thoái nợ tự nhiên này mà chúng ta nên thúc đẩy nó để giảm tỷ lệ nợ trong nền kinh tế xuống mức bền vững hơn.
Gánh nặng nợ - nhóm doanh nghiệp nào đang vay nợ nhiều nhất?
Các cuộc thảo luận gần đây đều tập trung vào hệ thống tài chính, tuy nhiên, tình hình tài chính của các doanh nghiệp là một thái cực khác chúng ta cần phải xem xét. Theo ông Nguyễn Xuân Thành, trong thời gian qua, các doanh nghiệp này đã tăng đòn bẩy tài chính lên rất nhiều. Đến cuối quý II, tổng nợ phải trả/vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Việt Nam rất cao.
Với 647 doanh nghiệp niêm yết không kể các tổ chức tài chính trên 2 sàn chứng khoán, chỉ số tổng nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân là 1,53 – năm 2007 với 114 doanh nghiệp chỉ số này là 1,2.
Trong khi Trung Quốc, trong thời gian qua tỷ lệ này đã tăng lên liên tục nhưng cũng chỉ ở mức 1,06 (năm 2011); Hoa Kỳ trước khủng hoảng chỉ số này đạt trên 2, nhưng sau khủng hoảng 2008, sau quá trình tái cấu và thoái nợ, trước sức ép của thị trường và ngân hàng tỷ lệ này hiện khoảng 1,2.

Nguồn: Số liệu từ kết quả nghiên cứu của Th.s Nguyễn Xuân Thành
Trên sàn giao dịch chứng khoán của Việt Nam, các công ty xây dựng, bất động sản là nhóm doanh nghiệp có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu cao nhất, ở mức 2,07%; các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và dịch vụ có tỷ lệ này dưới 1; còn các doanh nghiệp nhà nước tỷ lệ 1,71.
Đấy là hiện trạng của các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy khi chúng ta bất ổn vĩ mô, lãi suất ngân hàng cao, gánh nặng lên doanh nghiệp sẽ tăng cao.
Thoái nợ muốn cưỡng lại – có được không?
Nhìn vào kinh nghiệm các nước khu vực khi bị khủng hoảng tài chính, các nền kinh tế trên thế giới dưới tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, họ đều phải trải qua quá trình thoái nợ.
Về mặt tự nhiên, khi bị một gánh nặng nợ quá lớn đối với nền kinh tế, quy luật đòi hỏi phải giảm nợ, tái cấu trúc nợ. “Anh leo núi, dùng đòn bẫy nợ. Bây giờ anh phải xuống núi, giảm đòn bẫy nợ” - Đây là còn đường duy nhất để anh trở lại con đường lành mạnh tài chính, trở lại với xuất phát điểm để gây dựng lại cả ở doanh nghiệp lẫn nền kinh tế, ông Thành nhấn mạnh.
Đương nhiên trong ngắn hạn khi tất cả đều phải thoái nợ, đồng nghĩa là phải tiết kiệm, không được đầu tư mạnh mẽ, không đầu tư dàn trải, không trả cổ tức cao, dùng lợi nhuận để trả nợ...
Nhưng khi tất cả mọi người đều làm như vậy, tổng cầu sẽ giảm, trước mắt nó chưa tác động đến tăng trưởng kinh tế như chúng ta nhìn thấy mà ngay trước đó là doanh nghiệp kinh doanh khó khăn hơn, hàng tồn kho nhiều hơn. Vậy nên, cả Chính phủ, doanh nghiệp và ngân hàng muốn cưỡng lại quá trình tự nhiên này dù cho tỷ lệ tín dụng/GDP chững lại và thậm chí giảm xuống.
“Chúng ta nên chọn cách đi mạnh mẽ, chấp nhận tổn thất, có thể tổn thất”
Nhưng cái khổ của cưỡng lại, khi mà anh đạt đến đòn bẫy nợ đó thì không thể dừng được, hoặc là giảm, hoặc tiếp tục tăng. Nếu vay nợ quá nhiều thì hoặc là phải thanh lý tài sản, tái cơ cấu để giảm nợ; hoặc phải vay tiếp, lấy nợ mới trả nợ cũ.
Ông Thành chia sẻ: theo quan điểm của chúng tôi, kể cả phía doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hay cả Chính phủ, nên tạo điều kiện, bắt đầu con đường thoái nợ, đưa con số tỷ lệ tổng nợ phải trả/vốn chủ sở hữu 1,53 giảm xuống.
Nếu để tự nhiên, muốn giảm tỷ lệ này chúng ta cần thời gian bằng khoảng thời gian đã làm tăng nó. Giống như khi leo núi, chúng ta mất bao nhiêu năm leo núi, chúng ta sẽ phải mất từng đấy thời gian để xuống núi.
“Đối với nền kinh tế Việt Nam, thời gian đó là một cái giá phải trả quá lớn. Nhưng theo tôi, chúng ta nên chọn cách đi mạnh mẽ, chấp nhận tổn thất, có thể tổn thất, khơi thông dòng vốn từ những dòng nợ xấu, từ những khoản vay, từ những doanh nghiệp không còn đủ khả năng nuôi mình, chuyển sang những bộ phận năng động hơn của nền kinh tế.”
Trên quan điểm thay vì cố gắng nuôi nó, cố gắng đảo ngược tiến trình này, chúng ta nên đẩy nhanh quá trình thoái nợ xuống mức bền vững hơn.
Làm cách nào để đẩy nhanh quá trình thoái nợ và tiến đến phục hồi kinh tế?
Theo ý kiến của ông Xuân Thành, về phía nhà nước, 2 mảng mà nhà nước cần phải làm quyết liệt hơn là doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tài chính. Bởi tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu của DNNN là cao nhất; 77% tín dụng cho doanh nghiệp, khoảng 2 triệu tỷ đồng, trong đó có trên 400.000 tỷ đồng danh cho doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, nhà nước có thể giúp các DNNN giảm tỷ lệ nợ.
Nhưng giảm bằng cách nào? Bởi bản thân các DNNN cũng đang khó khăn, không còn dòng tiền. Vấn đề trả nợ của DNNN theo tôi là bán tài sản, đẩy mạnh cổ phần hóa, bán một phần tài sản đối với doanh nghiệp đã cổ phần hóa, dùng nguồn tiền này trả nợ xấu.
Chúng ta không bắt buộc phải bùng nổ tín dụng với ngân hàng, vẫn có thể kiềm chế tín dụng. Nhưng khi DNNN dùng tiền bán/thanh lý tài sản trả nợ, xử lý nợ xấu, ngân hàng thu hồi được nợ, nguồn tín dụng được mới khai thông này có thể dùng cho doanh nghiệp khác: các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được tiếp cận vốn.
Sự kết hợp giữa doanh nghiệp nhà nước và khu vực tài có thể đẩy nhanh quá trình thoái nợ xuống mức bền vững. Giảm được nợ khu vực DNNN sẽ tác động mạnh nhất đến quá trình thoái nợ.
Bản thân ngân hàng nếu không có sự quyết liệt của Chính phủ, các ngân hàng cũng không đẩy nhanh đòi nợ các doanh nghiệp nhà nước, cũng như “ngại” xử lý tài sản thế chấp của DNNN.
Vậy Nhà nước có thể làm gì cho khu vực dân doanh?
Đối với doanh nghiệp dân doanh, điều nhà Nhà nước có thể làm được: khung pháp lý, tính hữu hiệu của pháp lý trong việc chúng ta đẩy mạnh áp dụng luật phá sản, thúc đẩy M&A doanh nghiệp, hình thành các tổ chức mua bán tài sán/nợ tư nhân và tạo khung pháp lý thông thoáng cho các tổ chức này hoạt động.
Trên quan điểm nghiên cứu chính sách công của chúng tôi, chúng ta không cưỡng lại quá trình thoái nợ tự nhiên này mà chúng ta nên thúc đẩy nó để giảm tỷ lệ nợ trong nền kinh tế xuống mức bền vững hơn.
Q. Nguyễn