MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Cập nhật đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam và khuyến nghị

10-10-2021 - 15:48 PM | Tài chính - ngân hàng

Đường phố Hà Nội những ngày giãn cách (nguồn ảnh: kenh14)

Đường phố Hà Nội những ngày giãn cách (nguồn ảnh: kenh14)

Theo TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, Việt Nam vẫn đang đối mặt với 9 khó khăn và thách thức. Nhóm chuyên gia đồng thời đưa ra 6 khuyến nghị nhằm hạn chế tác động của dịch bệnh, góp phần nhanh chóng khôi phục kinh tế - xã hội. Tăng trưởng GDP quý 4 có thể đạt 3,5%-5,3%, giúp GDP cả năm có thể tăng 2,5% đến 3%.

LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo cập nhật Đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam và khuyến nghị.

Báo cáo cho biết, sau hơn 20 tháng bùng phát trên phạm vi toàn cầu, đại dịch Covid-19 đến nay đã có tác động nghiêm trọng tới mọi hoạt động kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia. Mặc dù Chính phủ các nước đã có nhiều nỗ lực trong kiểm soát dịch bệnh nhưng diễn biến dịch vẫn còn phức tạp với các đợt bùng phát trở lại cùng với rủi ro biến thể virus mới và tiến trình tiêm vaccine còn gian nan, nhất là tại các nước đang phát triển và thu nhập thấp.

Mặc dù đã kiểm soát dịch Covid-19 thành công cho tới nửa đầu năm 2021 và kinh tế Việt Nam đã dần phục hồi khi GDP 6 tháng đầu năm 2021 đạt mức tăng trưởng khá tích cực là 5,64% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, đợt bùng phát Covid lần thứ 4 (từ cuối tháng 4/2021) đến nay đã gây nên những hậu quả nặng nề nhất đối với kinh tế - xã hội nước ta. Tăng trưởng GDP quý 3/2021 giảm mạnh (-6,17%), đưa mức GDP 9 tháng đầu năm chỉ còn tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng trưởng 9 tháng thấp nhất kể từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay.

Tiếp theo các báo cáo đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với nền kinh tế thời gian qua, Báo cáo này của Nhóm tác giả sẽ cập nhật đánh giá tác động của đại dịch tới các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam đến hết tháng 9/2021 cùng với một số khuyến nghị để khắc phục khó khăn và sớm đưa nền kinh tế phục hồi, phát triển trong điều kiện mới.

CẬP NHẬT ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH COVID-19

TỚI KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM


Kinh tế thế giới 9 tháng đầu năm tiếp tục xu hướng phục hồi, dù mức tăng trưởng không khả quan như các dự báo hồi đầu năm do vẫn phải đối mặt với các đợt bùng phát mạnh của biến thể Delta. Đà phục hồi kinh tế không đồng đều giữa các nước và khu vực trên thế giới, tùy thuộc vào khả năng kiểm soát dịch bệnh, tỷ lệ tiêm vaccine và mức độ, hiệu quả của các gói hỗ trợ. Báo cáo mới nhất của các tổ chức như IMF, WB, OECD, ADB… dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2021 khoảng 5,6-6%, giảm nhẹ so với dự báo hồi đầu năm; trong đó sự phục hồi nhanh tại các nền kinh tế phát triển đã đạt tỷ lệ tiêm vaccine cao sẽ bù đắp được sự tăng trưởng chậm lại tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, nơi có tỷ lệ bao phủ vaccine thấp hơn và vẫn phải đối mặt với dịch bệnh. Hiện nay, vẫn chưa xác định được thời điểm kết thúc đại dịch; vì vậy, hầu hết các nước đang có xu hướng "sống chung với Covid", kiểm soát dịch bệnh và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

Đối với Việt Nam, nền kinh tế trong quý 3/2021 đã phản ánh rõ những ảnh hưởng nặng nề của đại dịch. Tăng trưởng GDP quý 3 ước giảm -6,17%; tính chung 9 tháng, GDP chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng trưởng 9 tháng thấp nhất kể từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay. Mặc dù dịch bệnh đang dần được kiểm soát cùng với tiến trình bao phủ vaccine được đẩy nhanh hơn, cùng với việc điều chỉnh chiến lược phòng chống dịch giúp cân bằng hơn giữa việc đảm bảo sức khỏe người dân và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội; lĩnh vực nông nghiệp, xuất – nhập khẩu tăng khá và ổn định kinh tế vĩ mô được đảm bảo; nhưng Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với 9 khó khăn, thách thức.

Đó là: (i) dịch bệnh trên thế giới và trong nước còn diễn biến phức tạp và khó lường; (ii) kinh tế thế giới phục hồi không đồng đều, nhiều bất định (trong đó có đà phục hồi của Trung Quốc đang chậm lại); (iii) rủi ro, áp lực lạm phát, chi phí toàn cầu gia tăng; (iv) sản xuất công nghiệp tăng trưởng chậm lại, đứt gãy chuỗi cung ứng, tiêu thụ vẫn hiện hữu; (v) lĩnh vực dịch vụ tiếp tục giảm mạnh; (vi) đầu tư tư nhân, đầu tư công giảm sút trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chưa phục hồi; (vii) thu - chi ngân sách đối diện với nhiều thách thức khi nguồn thu giảm, thiếu bền vững và nhu cầu chi cấp bách gia tăng; (viii) hoạt động của doanh nghiệp còn rất nhiều khó khăn (về tài chính, dòng tiền, về nguồn cung – phân phối, về lao động và gián đoạn SXKD…); (ix) tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế và cải cách, hoàn thiện thể chế còn chậm, nợ xấu gia tăng…v.v.

Với kết quả 9 tháng đầu năm và bắt đầu mở cửa lại nền kinh tế từ đầu tháng 10, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV dự báo kinh tế Việt Nam sẽ sớm hồi phục từ quý 4/2021, tăng trưởng quý 4 có thể đạt 3,5%; giúp GDP cả năm 2021 có thể tăng 2,5% (kịch bản cơ sở) đến 3% (kịch bản tích cực).

CẬP NHẬT TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH COVID-19
ĐỐI VỚI CÁC NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM


- Về phạm vi đánh giá: tiếp tục lựa chọn 16 ngành kinh tế chịu tác động trực tiếp và cũng là các ngành kinh tế quan trọng (chiếm khoảng 75% GDP năm 2020 của Việt Nam).

- Về tiêu chí đánh giá, gồm 3 tiêu chí chính: (i) diễn biến hoạt động (GDP, sản lượng) của ngành đến hết 9 tháng đầu năm; (ii) kim ngạch xuất-nhập khẩu 9 tháng (tính đến cả yếu tố đầu vào và đầu ra so với cùng kỳ năm 2020), và (iii) diễn biến giá cổ phiếu của nhóm ngành này niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam (phản ánh kỳ vọng của thị trường); và có tham khảo số liệu về số doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh trong 9 tháng (xem mức độ khó khăn như thế nào).

Theo đó, so với các kỳ đánh giá trước đây, các ngành du lịch, lưu trú – ăn uống, vận tải, bán lẻ, y tế, giáo dục – đào tạo vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng nặng nề, một số lĩnh vực khác vấp phải nhiều khó khăn hơn như dệt may, da giày và xây dựng, trong khi mức độ khó khăn của một số ngành kinh tế khác đã giảm bớt, thậm chí một số ngành đã có sự phục hồi đáng kể. Tác động cụ thể tới 16 ngành kinh tế được tổng hợp tại Bảng 1.

Khu vực nông-lâm nghiệp-thủy sản

Mặc dù trong quý 3/2021, dịch bệnh bùng phát mạnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, lĩnh vực nông - lâm nghiệp - thủy sản vẫn tăng trưởng dương ở mức 1,04% nhờ điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, năng suất lúa tăng cao, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số nông sản 9 tháng năm 2021 đạt khá so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng đầu năm, khu vực nông-lâm nghiệp, thủy sản tăng 2,74%, đóng góp 0,35 điểm% vào mức tăng trưởng chung. Trong bối cảnh các động lực chính của nền kinh tế là công nghiệp - xây dựng, dịch vụ chịu tác động tiêu cực của dịch bệnh, khu vực nông nghiệp vẫn là bệ đỡ vững chắc cho tăng trưởng nền kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Tuy nhiên, hoạt động của doanh nghiệp khu vực này còn nhiều khó khăn với số lượng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong 9 tháng đầu năm vẫn tăng cao (+23% so với cùng kỳ năm trước) dù có giảm so với quý 2/2021.

Khu vực công nghiệp và xây dựng

Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chịu ảnh hưởng nặng nề của đợt bùng phát Covid-19 lần thứ 4. Trong quý III, do phải thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt, nhiều nhà máy sản xuất phải tạm ngừng hoạt động. Thêm vào đó, chuỗi cung ứng bị đứt gãy và chịu ảnh hưởng nhiều từ thị trường quốc tế (tăng giá nguyên liệu, đình trệ về vận tải hàng hóa …) nên hoạt động của ngành càng thêm khó khăn. Tính riêng trong quý 3, GDP khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 5,02% đưa mức tăng của 9 tháng xuống chỉ còn 3,57% (từ mức 8,36% trong 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ).

Ngành xây dựng chịu ảnh hưởng tương đối tiêu cực từ dịch Covid-19 dù một số lĩnh vực được hưởng lợi từ việc thúc đẩy giải ngân đầu tư công của Chính phủ. Các đợt bùng phát dịch trong quý II và III cũng đã phần ảnh hưởng khá rõ nét tới hoạt động của ngành khi nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội. Do đó, 9 tháng đầu năm, GDP ngành đã sụt giảm -0,58% từ mức mức tăng trưởng 5,59% trong 6 tháng đầu năm và 6,53% của quý 1.

Cập nhật đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam và khuyến nghị - Ảnh 1.

Khu vực dịch vụ

Đây là các ngành phản ánh rõ nhất tác động tiêu cực từ đại dịch và sẽ cần thêm thời gian hơn để phục hồi. Trong quý 3, GDP của khu vực này sụt giảm 9,28% và tính chung 9 tháng giảm 0,69% (trong khi 6 tháng đầu năm vẫn tăng trưởng 3,96%).

Đối với lĩnh vực du lịch, vận tải, dịch bệnh diễn biến phức tạp tại đa số các nước, cũng như tại nhiều địa phương trong nước, nên các hoạt động du lịch, vận tải vẫn rất khó khăn. Tính chung 9 tháng đầu năm, lượng khách du lịch quốc tế vẫn giảm 97%, khách trong nước giảm 24%; doanh thu các ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống, dịch vụ lữ hành lần lượt giảm 22,1%64% so với cùng kỳ năm trước.

Trong khi đó, các ngành bán lẻ, kinh doanh bất động sản (BĐS) vẫn trong xu hướng sụt giảm với mức giảm lần lượt là 3,1%0,78% trong 9 tháng đầu năm do dịch Covid-19 vẫn tác động khá rõ nét tới hoạt động bán lẻ, các phân khúc bất động sản như cho thuê mặt bằng bán lẻ, văn phòng, BĐS du lịch, nghỉ dưỡng…v.v. Cùng với đó, lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi, giải trí giảm 6,2% so với cùng kỳ năm trước.

Trái lại, một số lĩnh vực dịch vụ khác vẫn duy trì đà tăng trưởng khá như thông tin – truyền thông viễn thông (+5,24%), khoa học – công nghệ (+5,72%), lĩnh vực tài chính-ngân hàng-bảo hiểm (+8,37%). Đây là những ngành hưởng lợi từ xu thế chuyển đổi số, kinh doanh trực tuyến, vận chuyển giao hàng, thanh toán không dùng tiền mặt, cùng với sự quan tâm của nhà đầu tư đối với thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, cần lưu ý là tác động đối với lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm là có độ trễ; do tác động của dịch bệnh đối với doanh nghiệp, người dân, đã và đang tác động tiêu cực hơn đối với lĩnh vực ngân hàng, nợ xấu gia tăng rõ rệt với tỷ lệ nợ xấu nội bảng có thể tăng lên mức 2% cuối năm 2021 và khoảng 2,3-2,5% năm 2022; và nợ xấu gộp (gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC và nợ xấu tiềm ẩn) tăng từ 5,1% cuối năm 2020 lên 7,2% hiện nay (nếu tính cả các khoản nợ cơ cấu lại nhưng không bị chuyển nhóm theo Thông tư 01 và Thông tư 03 của NHNN, theo báo cáo của NHNN).

DỰ BÁO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ LẠM PHÁT CẢ NĂM 2021


Với tình hình bị ảnh hưởng tiêu cực như trên, hiện nay, tất cả các tổ chức quốc tế cũng như trong nước đều hạ dự báo tăng trưởng của Việt Nam so với các dự báo trước đó. Chẳng hạn, WB (9/2021) vẫn dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam khoảng 4,8%, trong khi ADB (9/2021) dự báo mức tăng trưởng 3,8%, Citi Research (cuối tháng 9/2021) dự báo mức tăng trưởng 1,5%, và Standard Chartered dự báo tăng 2,7% năm 2021. Dự báo rất khác nhau thể hiện sự bất định của khả năng phục hồi, phụ thuộc nhiều vào khả năng kiểm soát dịch bệnh và mở cửa nền kinh tế như thế nào.

Theo đánh giá của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm nay có thể theo 2 kịch bản như sau:

Với kịch bản cơ sở, với điều kiện các nước trên thế giới đẩy nhanh tiêm vaccine trong quý 4/2021, giúp giảm mạnh tình trạng lây nhiễm, khôi phục đa số hoạt động kinh tế - xã hội. Tại Việt Nam, làn sóng dịch thứ 4 sẽ được kiểm soát, tiến tới trạng thái "sống chung an toàn với Covid" từ đầu quý 4/2021 tại hầu hết các tỉnh, thành; tiêm chủng được đẩy mạnh và đạt tỷ lệ 70% người trưởng thành được tiêm đủ 2 mũi) vào cuối quý 2/2022; môi trường kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, đẩy mạnh thu hút đầu tư, tạo cơ sở để kinh tế tăng trưởng tích cực. Khi đó, kinh tế Việt Nam sẽ sớm hồi phục trong quý 4/2021, tăng trưởng đạt khoảng 3,5% so cùng kỳ; giúp GDP năm 2021 của Việt Nam có thể tăng 2,5%. Khả năng xảy ra kịch bản này là khá cao.

Với kịch bản tích cực hơn, nếu Việt Nam có thể kiểm soát tốt dịch bệnh và có đủ nguồn vaccine như kế hoạch đề ra, đẩy nhanh tiêm chủng, đạt tỷ lệ 70% người trưởng thành được tiêm đủ 2 mũi vào cuối quý 1/2022, cả nước nhất quán phương châm "sống chung an toàn với Covid", sớm khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội; khi đó, kinh tế sẽ phục hồi nhanh ngay trong quý 4, tăng 5,3%, giúp GDP cả năm 2021 tăng khoảng 3%. Khả năng xảy ra kịch bản này là không cao.

Năm 2022, khi dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi; dự báo kinh tế Việt Nam có thể trở lại với chu kỳ tăng trưởng và đạt tốc độ 6,5-7%.

Về lạm phát: dự báo 3 tháng cuối năm, áp lực tăng lạm phát và giá cả hàng hóa thế giới vẫn còn và đà hồi phục kinh tế trong nước cùng với yếu tố chu kỳ cuối năm có thể khiến chỉ số CPI quý 4 tăng cao hơn quý 3. Tuy nhiên, sự ổn định của nhóm hàng hóa thiết yếu nhờ nguồn cung dồi dào và công tác bình ổn giá hiệu quả; sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các chính sách sẽ góp phần kìm giữ đà tăng giá, CPI bình quân cả năm 2021 dự báo ở mức 2,3-2,5%, thấp nhất trong vòng 6 năm. Năm 2022, với đà phục hồi của nền kinh tế và sức cầu trong nước, đà tăng lạm phát và giá cả hàng hóa, dịch vụ toàn cầu chỉ giảm nhẹ, dự báo lạm phát sẽ tăng cao hơn trong năm 2022 ở mức 3-3,3%, tuy thấp hơn 0,3-0,5 điểm % so với dự báo trước đó, song là mức cao hơn hầu hết các nước ASEAN (theo ADB, tháng 9/2021). Vì vậy, không thể chủ quan, cần chú trọng phối hợp chính sách nhằm đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế bền vững.

SÁU KHUYẾN NGHỊ

Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến còn phức tạp, để đạt được mục tiêu phục hồi kinh tế - xã hội ở mức khả quan nhất, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV có 6 khuyến nghị chính nhằm hạn chế tác động của dịch bệnh, góp phần nhanh chóng khôi phục kinh tế - xã hội như sau:

Một là, chuyển chiến lược "mục tiêu kép" thành chiến lược "đa mục tiêu": vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế, đảm bảo năng lực y tế, an sinh, an ninh tâm lý và xã hội, tăng năng lực chống chịu các cú sốc bên ngoài và tâm thế phục hồi, tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong và sau đại dịch. Để làm được điều này, các kế hoạch, chiến lược phòng chống dịch và phục hồi, phát triển kinh tế cần được cùng họp bàn, tích hợp, tính toán nhằm đảm bảo tính tối ưu, cân bằng và phù hợp hơn.

Hai là, nhất quán thay đổi mô hình, chiến lược phòng chống dịch và đẩy nhanh chiến lược vaccine. Mô hình "sống chung với virus" cần được làm rõ nội hàm cùng với những chiến lược, giải pháp và hướng dẫn chung để các địa phương nhất quán thực hiện. Theo đó, không để đứt gãy quá nhiều chuỗi cung ứng và chuỗi lao động. Xử lý nghiêm những trường hợp gây khó dễ, làm đứt gãy chuỗi một cách vô lý. Đồng thời, cần có kế hoạch, phương án cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp về việc tuyển dụng, đi lại và giữ lao động. Việc này đòi hỏi nỗ lực, sự phối hợp ăn ý của 4 bên: Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người lao động.

Ba là, cần sớm ban hành Chương trình phục hồi kinh tế trong đó, cần kiên định "đa mục tiêu" và khai thác các động lực tăng trưởng mới và gồm cả chính sách phục hồi xanh. Theo đó, chính phủ cần ban hành Khung chương trình phục hồi kinh tế để các bộ, ngành, địa phương nhất quán xây dựng và thực hiện. Chính phủ cũng cần có kế hoạch, lộ trình mở cửa rõ ràng, khả thi để doanh nghiệp, người dân có thể chủ động phương án SXKD của mình.

Bốn là, cần khẩn trương, quyết liệt thực hiện các gói hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đã ban hành. Chính phủ chỉ đạo khẩn trương rà soát, đánh giá sơ bộ kết quả thực hiện các gói hỗ trợ đến thời điểm hiện tại và tiến hành tháo gỡ ngay những vướng mắc trong quá trình thực hiện (đến nay, đa số các gói hỗ trợ còn triển khai chậm).

Năm là, Chính phủ xem xét có gói hỗ trợ tổng thể tiếp theo, trên cơ sở cân nhắc, tính toán dư địa chính sách tài khóa và tiền tệ, mức độ tác động của dịch bệnh, bối cảnh và cơ hội mới để thiết kế chính sách phù hợp. Lúc này chúng ta cần chấp nhận nợ công tăng, thâm hụt ngân sách tăng và tín dụng tăng trong tầm kiểm soát. Với tiềm lực, dư địa tài khóa và tiền tệ hiện nay, Việt Nam có thể tăng chi ngân sách, tăng cung tiền ở mức độ hợp lý và từ năm 2023 có thể quay lại quỹ đạo, kiểm soát những cán cân này lành mạnh hơn.

Cuối cùng, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế nhằm có thể huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; cũng như cải cách, hoàn thiện thể chế, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư – kinh doanh, gồm cả thể chế phát triển kinh tế số, xã hội số và chính phủ số. Đây chính là những động lực phục hồi đòi hỏi ít chi phí nhưng hiệu quả và tính bền vững cao./.

H. Kim (ghi theo báo cáo của Nhóm chuyên gia)

Nhịp sống kinh tế

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên