Doanh nghiệp đầu tiên trên TTCK Việt Nam bị buộc phá sản: Bài học cũ từ cú sụp đổ kinh điển của Enron
Cách đây hơn 20 năm, Enron, tập đoàn dầu khí hàng đầu Mỹ, cũng với những sai lầm trong việc đầu tư của mình, được che giấu bởi rất nhiều thủ thuật, cuối cùng đã phải nộp đơn xin phá sản.
- 31-03-2020Sau thông báo sắp phá sản, Bao bì Nhựa Sài Gòn (SPP) báo lỗ 2019 lên tới 720 tỷ đồng
- 30-03-2020Doanh nghiệp đầu tiên bị buộc phá sản khi đang niêm yết: Những ngân hàng nào là chủ nợ của SPP?
- 16-08-2012Những vụ án kinh tế chấn động (kỳ 2): Enron - “Kẻ dối trá vĩ đại”
Những ngày gần đây, thị trường chứng khoán Việt Nam đã ghi nhận trường hợp đầu tiên bị buộc phá sản ngay khi vẫn còn niêm yết là CTCP Bao bì nhựa Sài Gòn (Saplastic, mã chứng khoán SPP). Mặc dù từng là doanh nghiệp lớn trong ngành sản xuất bao bì, từng hợp tác với các công ty hàng đầu tại Việt Nam như Vinamilk, Masan... nhưng những sai lầm trong việc đầu tư đã khiến cho SPP mất dần vị thế với những khoản nợ ngày một lớn.
Sau thông tin hủy niêm yết, SPP cũng đột ngột báo lỗ tới 720 tỷ đồng trong năm 2019.
Cách đây hơn 20 năm, Enron khi đó là tập đoàn dầu khí hàng đầu Mỹ với những sai lầm trong việc đầu tư của mình, được che giấu bởi rất nhiều thủ thuật, cuối cùng đã phải nộp đơn xin phá sản. Nhân việc TTCK Việt Nam có doanh nghiệp niêm yết đầu tiên bị phá sản, hãy cùng nhắc lại sự kiện lịch sử đã thay đổi rất nhiều thị trường tài chính của Mỹ.
SPP hiện chỉ còn 500 đồng/cp
Enron được thành lập vào năm 1985 sau sự sáp nhập của hai công ty trong ngành dầu khí là Công ty Houston Natural Gas và InterNorth. Kenneth Lay – người từng đảm nhận vị trí CEO ở Houston Natural Gas - trở thành CEO và chủ tịch của Enron, đã đưa công ty phát triển mạnh mẽ những năm tiếp theo. Một thời gian ngắn sau đó, Lay thành lập công ty tài chính Enron và thuê Jeffrey Skilling, một nhà tư vấn của McKinsey and Company – cũng là một trong những công ty hàng đầu về tư vấn tài chính của Mỹ, làm giám đốc của doanh nghiệp này.
Tận dụng việc thay đổi luật giúp cho các công ty năng lượng có thể sử dụng những hợp đồng phái sinh để đặt cược vào giá cả trong tương lai, cũng như việc Lay giúp công ty có thể bán điện theo giá thị trường giúp công ty gia tăng đáng kể lợi nhuận. 10 năm sau khi thành lập, Enron đã trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu của ngành dầu khí và lọt vào top 150 trong bảng xếp hạng Fortune 500 – BXH của 500 doanh nghiệp có doanh thu lớn nhất nước Mỹ.
Lợi nhuận của Enron gia tăng nhanh qua các năm (Ảnh: FortuneMagazine, Stockbook tổng hợp)
Tuy nhiên, thực chất của những bước phát triển thần kỳ này lại nằm ở việc Enron xử lý những con số trong báo cáo tài chính bằng những thủ thuật vô cùng tài tình, mà Skiing là đạo diễn. Đầu tiên, doanh nghiệp này chọn toàn bộ giá trị giao dịch của mình để ghi nhận doanh thu, giúp doanh thu cao hơn thực tế nhiều lần, thay vì chỉ ghi nhận chi phí giao dịch là doanh thu (vì thực chất, công ty này chỉ là người trung gian trong giao dịch mua bán và lợi nhuận thực tế của họ là tiền hoa hồng trong hợp đồng). Bằng cách này, doanh thu của công ty không ngừng tăng cao, dù trên thực tế, số tiền công ty thu về thấp hơn nhiều.
Thứ hai, Enron thay đổi chính sách kế toán từ phương pháp kế toán giá gốc (historical cost) sang phương pháp hạch toán theo giá thị trường (mark – to – market). Mặc dù đây là phương pháp kế toán được sử dụng rộng rãi nhờ tính ưu việt của nó trong việc đánh giá tình hình tài chính thực tế, nhưng trong trường hợp của Enron, công ty sử dụng nó để ghi nhận lợi nhuận từ các dự án trên sổ sách mặc dù thực tế công ty không hề nhận được tiền. Một ví dụ điển hình của việc tận dụng lỗ hổng từ hệ thống kế toán này đó là công ty ghi nhận lợi nhuận trong hợp đồng trị giá 110 triệu USD với Blockbuster, mặc dù hệ thống được thành lập giữa hai bên thất bại hoàn toàn và đây là một khoản thua lỗ chứ không hề mang lại lợi nhuận cho công ty.
Lợi nhuận của Enron thực chất đến từ cách ghi nhận của họ, chứ không phải thực tế (Ảnh: J.D.Henning)
Cuối cùng, những công ty phục vụ mục đích đặc biệt (Special Purpose Entity - SPE) được Enron thành lập nhằm mục đích che giấu những khoản lỗ và nợ của mình. Thông qua việc bán những khoản nợ của công ty cho những SPE này, Enron che giấu được rất nhiều khoản nợ xấu trong báo cáo tài chính. Bằng việc sử dụng các SPE, công ty này khiến những khoản nợ trên báo cáo tài chính thấp hơn, đồng thời gia tăng doanh thu và vốn chủ sở hữu.
Bằng những thủ thuật kế toán, Enron đã khiến báo cáo tài chính của mình trở nên tuyệt đẹp (Ảnh: Investopedia, nguồn Forbes)
Tất nhiên, Enron không thể làm được việc này nếu như không có sự trợ giúp đắc lực từ Arthur Andersen, cùng với Big – 4 hiện tại, là một trong những công ty kiểm toán hàng đầu thế giới lúc bấy giờ. Bằng việc bắt tay với Enron khi nhận tới 1 triệu USD/ tuần cho việc kiểm toán, các nhân viên của công ty kiểm toán này đã che giấu rất nhiều lỗ hổng trong báo cáo tài chính của công ty từng đứng thứ 7 trong bảng xếp hạng Fortune 500, giúp họ tiếp tục lừa dối các nhà đầu tư trong nhiều năm.
Tuy nhiên cuối cùng thì những thủ thuật của Arthur Andersen và Enron cũng đến hồi kết. Khi không thể tiếp tục che giấu những khoản thua lỗ khổng lồ của mình và vụ việc bị vỡ lở vào cuối năm 2001, giá cổ phiếu của Enron liên tục giảm giá.
Từ việc có giá 90 USD/ cổ phiếu vào giữa năm 2000, giá cổ phiếu Enron chỉ còn 0.6 USD/ cổ phiếu vào tháng 11/ 2001. Những khoản thua lỗ của công ty được tính toán lên đến hàng tỷ USD, và 1 tháng sau khi cổ phiếu của công ty gần như vô giá trị, Enron đã điền vào đơn phá sản, chấm dứt vòng đời ngắn ngủi của một trong những công ty phát triển nhanh nhất trên thị trường chứng khoán Mỹ. Arthur Andersen – đồng "đạo diễn" với Enron trong thương vụ này, mất hầu hết khách hàng của mình và hoàn toàn biến mất vài năm sau đó. Skiing chịu phạt 24 năm tù và nộp phạt tới 45 triệu USD, trong khi Lay mất vì nhồi máu cơ tim.
Giá cổ phiếu của Enron giảm từ 90 USD/ cổ phiếu xuống gần như bằng 0 chỉ sau 1 năm
Như vậy, có thể thấy Enron đã hoàn toàn phá sản vì những bước đi sai lầm của mình trong việc phát triển kinh doanh, dẫn đến việc không thể trả được những khoản nợ khổng lồ cũng như cố gắng che giấu những sai lầm đó bằng các thủ thuật kế toán. Nhìn về Việt Nam, những quyết định mở rộng sản xuất kinh doanh sai lầm bằng dòng tiền vay mượn ngân hàng cũng như liên tục phát hành thêm để bổ sung vốn lưu động đã khiến cho SPP chịu cùng cảnh ngộ phá sản, khi họ không thể trả được những khoản nợ quá lớn này. Đây là bài học lớn cho các doanh nghiệp trên thế giới cũng như tại Việt Nam để tránh mắc phải trong tương lai.