Dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi có gì mới?
Luật Chứng khoán (sửa đổi) dự kiến có nhiều điểm mới về điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng, tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài, các khái niệm về người nội bộ, người có liên quan, chức năng và quyền hạn của thanh tra UBCKNN…
- 22-10-2018Luật Chứng khoán sửa đổi: Thêm gợi ý cho phương án nới room ngoại lên 100%
- 05-10-2018[Infographic] Luật Chứng khoán đã đạt những kết quả gì trong các năm qua?
- 04-10-2018Dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi: Con dâu, anh rể cũng phải công bố thông tin
Theo thông tin từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), nhằm tạo diễn đàn trao đổi, thảo luận trực tiếp giữa cơ quan chủ trì soạn thảo và đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản và cơ quan, tổ chức có liên quan, tạo sự đồng thuận trong xây dựng dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi), Bộ Tài chính tổ chức hội thảo “Đóng góp ý kiến đối với dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi)” vào ngày 7/11 tại miền Bắc.
Đối tượng tham gia bao gồm Bộ Tài chính, thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập, SGDCK Hà Nội, SGDCK TP HCM, Trung tâm LKCK Việt Nam, một số Bộ, ngành, công ty đã chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty niêm yết, công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát, công ty kiểm toán, báo chí, tổ chức, cá nhân có liên quan…
Trước đó, UBCKNN đã công bố toàn văn toàn văn dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) và dự thảo Tờ trình Chính phủ của dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi) để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến.
Dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) có nhiều điểm mới so với Luật Chứng khoán trước đây, bao gồm:
Mở rộng nhiều định nghĩa
Luật Chứng khoán (sửa đổi) mở rộng định nghĩa nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp bao gồm công ty có vốn điều lệ đạt trên 1.000 tỷ đồng và có thời gian niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán tối thiểu 2 năm; cá nhân có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán, cá nhân có kinh nghiệm đầu tư chứng khoán tối thiểu 2 năm và có giá trị giao dịch chứng khoán bình quân hàng tháng tối thiểu 2 tỷ đồng Việt Nam hoặc nắm giữ danh mục chứng khoán niêm yết có giá trị tối thiểu 5 tỷ đồng Việt Nam trong 12 tháng.
Dự thảo thay thế định nghĩa người biết tin nội bộ bằng người nội bộ. Cá nhân liên quan mở rộng thêm đối tượng con dâu, con rể, anh rể, em rể, chị dâu và em dâu.
Xem chi tiết tại đây
Điểm mới về chào bán cổ phiếu ra công chúng và riêng lẻ
Dự thảo nâng điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của công ty đại chúng là có vốn điều lệ 30 tỷ trở lên thay vì 10 tỷ trước đây, có tối thiểu 20% vốn điều lệ đã góp do ít nhất 100 nhà đầu tư (NĐT) không phải là cổ đông sở hữu từ 1% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết nắm giữ. Dự thảo bổ sung điều kiện cổ đông lớn phải cam kết cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều lệ của tổ chức phát hành tối thiểu 1 năm kể từ ngày kết thúc đợt chào bán.
Đối với doanh nghiệp phát hành thêm cổ phần, dự thảo luật bổ sung điều kiện thời điểm chào bán phải cách tối thiểu 1 năm sau lần chào bán gần nhất, đợt chào bán được coi là thành công khi bán được tối thiểu 70% số cổ phiếu dự kiến chào bán.
Việc chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi chào bán riêng lẻ bị hạn chế tối thiểu 3 năm đối với nhà đầu tư chiến lược và tối thiểu 1 năm đối với nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán.
Xem chi tiết tại đây
Mua cổ phiếu quỹ giảm vốn điều lệ
Dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) quy định công ty mua lại cổ phiếu của chính mình phải làm thủ tục giảm vốn điều lệ trong vòng 10 ngày từ khi hoàn tất. Doanh nghiệp mua lại cổ phiếu quỹ phải có quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua. Doanh nghiệp đang có nợ quá hạn căn cứ báo cáo tài chính năm gần nhất được kiểm toán, đang trong quá trình chào bán cổ phiếu để huy động thêm vốn không được mua cổ phiếu quỹ.
Xem chi tiết tại đây
Bổ sung hành vi bị cấm, thay đổi quy định về tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài
Về hành vi bị cấm, dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) thêm nội dung về sử dụng tài khoản, tài sản của khách hàng khi không được khách hàng ủy thác hoặc lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản của khách hàng; tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán trái quy định.
Theo dự thảo, tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại công ty đại chúng là không hạn chế, ngoại trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc pháp luật chuyên ngành có quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữunước ngoài. Trường hợp công ty đại chúng hoạt động đa ngành, nghề có quy định khác nhau về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài không vượt quá mức thấp nhất trong các ngành, nghề có quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữu nước ngoài.
Xem chi tiếttại đây
Xóa giấy phép “2 trong 1”
Dự thảo tách bạch giữa thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp và cấp giấy phép hoạt động kinh doanh đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện; khắc phục sự phân tán và thiếu thống nhất trong giải thể thủ tục thành lập doanh nghiệp; bảo đảm tổ chức kinh doanh chứng khoán có điều kiện để nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng, tuân thủ pháp luật.
Dự thảo nêu rõ công ty chứng khoán phải có vốn thực góp tối thiểu cho từng nghiệp vụ kinh doanh như môi giới và tự doanh vốn 50 tỷ trở lên, bảo lãnh phát hành chứng khoán vốn 300 tỷ trở lên, tư vấn đầu tư chứng khoán 10 tỷ.
Xem chi tiết tại đây
Mở rộng quyền cho UBCKNN trong thanh tra chứng khoán
Dự thảo mới quy định thanh tra chứng khoán chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Chủ tịch UBCKNN và hướng dẫn về nghiệp vụ của thanh tra Bộ Tài chính (Luật cũ là chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của thanh tra Bộ Tài chính). Chủ tịch UBCKNN, Chánh Thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán.
Mức phạt tiền tối đa trong xử phạt vi phạm hành chính là 3 tỷ đối với tổ chức và 1,5 tỷ đối với cá nhân, mức phạt tiền tối đa cho trường hợp tái phạm gấp 2 lần lần đầu.
Ngoài ra, dự thảo cũng có quy định chi tiết về công bố thông tin, quỹ bảo vệ nhà đầu tư, sửa đổi mô hình tổ chức Sở giao dịch chứng khoán, đổi tên trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam.
Xem chi tiết tại đây
Việc xây dựng Luật Chứng khoán sửa đổi nhằm hoàn thiện thể chế, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển của TTCK, đáp ứng yêu cầu hội nhập; nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với TTCK, bảo đảm TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế; góp phần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, sự an toàn của hệ thống tài chính, thị trường vốn mà trọng tâm là TTCK. Đồng thời, bảo đảm hiệu quả đầu tư và niềm tin của các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Người đồng hành