MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Kiểm toán Nhà nước: 10 doanh nghiệp có dấu hiệu mất an toàn về tài chính, hoặc bị đưa vào diện giám sát tài chính đặc biệt

Về hoạt động quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công tại các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã ghi nhận những mặt tích cực, cũng như chỉ ra những thiếu sót, bất cập.

Việc quản lý sử dụng vốn, tài sản của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế

Điểm sáng được ghi nhận trong "bức tranh" tổng thể kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2021 và các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn nhà nước của 219 đơn vị thuộc 20 TĐ, TCT và công ty là 19/20 TĐ, TCT, công ty sản xuất kinh doanh có lãi.

Trong đó, phải kể tới lợi nhuận sau thuế năm 2021 của các TĐ: Điện lực (EVN) là 15.647,10 tỷ đồng; Bưu chính Viễn thông (VNPT) 5.064,18 tỷ đồng; Than - Khoáng sản (TKV) 4.719,28 tỷ đồng và các TCT: Hàng hải Việt Nam (VIMC) 3.327,29 tỷ đồng; Thương mại Sài Gòn (Satra) 2.877,06 tỷ đồng; Sonadezi 1.507,17 tỷ đồng; Xi măng (Vicem) 1.287,87 tỷ đồng; Thuốc lá (Vinataba) 1.224,24 tỷ đồng; Cấp nước Sài Gòn (Sawaco) 1.064,68 tỷ đồng; Bưu điện (VNPost) 588,39 tỷ đồng; Lương thực miền Bắc (Vinafood1) là 294,16 tỷ đồng; Liksin 121,58 tỷ đồng...

Cùng với đó, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu tại một số đơn vị đạt tương đối cao, như VIMC đạt 28,73%; Sonadezi 16,2%; Sawaco 13,41%; Vinataba 11,43%; TKV 10,63%; Liksin 9,11%...

Tuy nhiên, phần lớn các đơn vị còn sai sót trong việc hạch toán kế toán, kê khai nghĩa vụ với ngân sách nhà nước (NSNN) nên qua kiểm toán phải điều chỉnh tổng tài sản/tổng nguồn vốn của các TĐ, TCT, công ty tăng 2.216,31 tỷ đồng, giảm 0,036 tỷ đồng; điều chỉnh tổng doanh thu, thu nhập tăng 1.297,54 tỷ đồng; tổng chi phí tăng 41,83 tỷ đồng, giảm 1.121,61 tỷ đồng. Đặc biệt, KTNN đã kiến nghị các TĐ, TCT, công ty phải tăng thu NSNN 1.411,12 tỷ đồng, giảm thuế giá trị gia tăng được khấu trừ 8,78 tỷ đồng.

Nhiều tồn tại trong quản lý nợ, trích lập dự phòng

Theo kết quả kiểm toán, tại VIMC nợ phải thu quá hạn lên tới 268,76 tỷ đồng, tại Công ty CP cảng Sài Gòn 164,04 tỷ đồng, tại Công ty CP Vận tải Biển Việt Nam 111,10 tỷ đồng. Nhiều DN khác cũng có số nợ phải thu quá hạn lên tới vài chục tỷ đồng, như Công ty CP Cảng Hải Phòng 38,36 tỷ đồng, Công ty TNHH MTV Vận tải Biển Đông 27,02 tỷ đồng, Công ty TNHH MTV Quản lý kinh doanh Nhà TP.Hồ Chí Minh 67,29 tỷ đồng, Công ty mẹ - Vinafor 86,78 tỷ đồng, Công ty mẹ - TCT Văn hóa Sài Gòn (SCPC) 42,3 tỷ đồng.

Số nợ khó đòi tại Công ty mẹ - Vinafood1 được xác định lên tới 2.537,98 tỷ đồng và tại nhiều TĐ, TCT, số nợ khó đòi cũng lên tới hàng trăm tỷ đồng, như Công ty mẹ - Satra 430,71 tỷ đồng, TKV 279,15 tỷ đồng. Một số đơn vị phải trích lập dự phòng phải thu khó đòi rất lớn như VNPT phải trích lập dự phòng 509,12 tỷ đồng; EVN phải trích lập dự phòng 367,86 tỷ đồng…

Nhiều DN bán hàng, đặt cọc cho nhà cung cấp không có bảo lãnh, tài sản đảm bảo hoặc vượt giá trị tài sản thế chấp, bảo lãnh hoặc ký hợp đồng với khách hàng chưa chặt chẽ; trích lập dự phòng thừa hoặc thiếu nợ phải thu khó đòi, xóa nợ không đúng quy định (cụ thể là VIMC xóa khoản nợ chưa đủ điều kiện xác định là khoản nợ không có khả năng thu hồi 23,3 tỷ đồng).

Theo KTNN, còn có tình trạng vật tư tồn kho lâu ngày, chậm luân chuyển; chưa đánh giá giá trị vật tư thu hồi sau sửa chữa tài sản; chưa kiểm kê đầy đủ vật tư, hàng hóa (như Satra chưa kiểm kê mặt hàng mỡ cá, giá trị trên sổ kế toán là 580,53 tỷ đồng).

Việc trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho cũng chưa đúng quy định, có DN trích thừa, nhưng có DN lại trích thiếu hàng tỷ đồng. Một số DN khấu hao tài sản cố định không đúng quy định, tiêu biểu trong đó là EVN trích thừa 388,96 tỷ đồng. Một số DN sử dụng tài sản cố định chưa hiệu quả…

Đáng chú ý, KTNN đã cảnh báo một số DN có dấu hiệu mất an toàn về tài chính (trong đó có 03 DN thuộc Vicem và 6 DN thuộc Vinafood1) hoặc bị đưa vào diện giám sát tài chính đặc biệt (01 DN thuộc EVN) theo quy định tại Nghị định số 87/2015/NĐ-CP của Chính phủ.

Nâng cao hiệu quả quản lý tài chính từ những tư vấn, khuyến nghị kiểm toán

Từ những khuyến nghị của KTNN, Ông Dương Mạnh Sơn - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) cho biết, PVN đã và sẽ tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung kịp thời hệ thống các văn bản quy định nội bộ trong lĩnh vực tài chính để triển khai và áp dụng đồng bộ từ PVN đến các DN có vốn góp của PVN.

Đặc biệt, PVN liên tục và không ngừng hoàn thiện, đưa ứng dụng công nghệ mới vào công tác quản lý tài chính. Cụ thể, xây dựng và đưa vào vận hành quy trình nghiệp vụ trên hệ thống ERP (SAP) với các phân hệ kế toán tài chính nhằm phát hiện sớm, kịp thời các vấn đề bất cập, dấu hiệu thiếu trung thực, không minh bạch, rõ ràng..., mất cân đối tài chính phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh để chủ động có biện pháp quản trị rủi ro, ứng phó và xử lý kịp thời. 

Phân tích sự khác biệt giữa Chuẩn mực kế toán Quốc tế (IFRS) và Chuẩn mực kế toán Việt Nam trong công tác lập và phát hành báo cáo tài chính để triển khai áp dụng IFRS.

Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của PVN còn một số vướng mắc về tài chính do các nguyên nhân khách quan liên quan đến các dự án của PVN, các dự án/DN nhận chuyển giao từ Vinashin, quyết toán cổ phần hóa các đơn vị... mà PVN đã báo cáo và kiến nghị tới các cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét, hướng dẫn xử lý. 

Do đó, ý kiến của KTNN với các cơ quan chức năng và/hoặc hướng dẫn DN sẽ rất hữu ích nhằm hỗ trợ, tư vấn giúp DN đảm bảo tính tuân thủ, minh bạch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của DN.

Phần mềm ERP là một mô hình công nghệ all-in-one, tích hợp nhiều ứng dụng khác nhau thành các module của một gói phần mềm duy nhất, giúp tự động hoá từ A đến Z các hoạt động liên quan tới tài nguyên của doanh nghiệp

PV

An ninh Tiền tệ

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên