MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Ảo tưởng

05-04-2009 - 10:04 AM | Tài chính quốc tế

Việc quá tin vào lý thuyết thị trường hiệu quả khiến các nhà hoạch định chính sách không muốn hạn chế bong bóng dotcom lẫn tín dụng. Khủng hoảng là tất yếu.

 

10 năm qua, lý thuyết thị trường hiệu quả chịu khá nhiều lời chỉ trích, lý thuyết này cho rằng giá cả tài sản phản ánh chính xác tất cả những thông tin liên quan đến sản phẩm.

 

Vào cuối thập niên 1990, những công ty dot com không có lợi nhuận và doanh thu đã được định giá hàng tỷ USD. Năm 2006, nhà đầu tư đã đánh giá quá thấp rủi ro của các khoản đầu tư vào thị trường thế chấp dưới thuẩn.

 

Hãy xét đến hiệu ứng tạo đà (momentum effect), việc mua những cổ phiếu tốt nhất trên thị trường trong một khoảng thời gian. Một nghiên cứu của London Business School cho thấy từ năm 1900, việc mua cổ phiếu với đà tăng điểm mạnh sẽ giúp biến 1 bảng Anh thành 1,95 triệu bảng Anh (chưa trừ đi chi phí và thuế) vào thời điểm cuối năm 2008.

 

Với số tiền tương tự nếu đầu tư vào cổ phiếu có mức tăng điểm nhẹ nhất sẽ giúp lên thành 31 bảng. Trong thị trường hiệu quả, việc bất thường như vậy sẽ không thể được chấp nhận.

 

Việc quá tin vào lý thuyết thị trường hiệu quả khiến các nhà hoạch định chính sách không muốn hạn chế cả bong bóng dotcom lẫn bong bóng tín dụng. Kết quả là họ phải can thiệp vào thị trường với những biện pháp mạnh tay hơn rất nhiều so với tưởng tượng của họ chỉ cách đây 10 năm. Chính phủ nhiều nước phải quốc hữu hoá hoặc trợ cấp một số ngân hàng. Các Ngân hàng Trung ương đứng ra làm người mua cuối cùng của các tài sản tài chính.

 

Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là loại bỏ đi hoàn toàn luận điểm của lý thuyết thị trường hiệu quả. Trên lý thuyết, người ta có thể kiếm được mức lợi nhuận cao hơn biến động chung của thị trường, tuy nhiên điều này trong thực tế là rất khó.

 

Điều này hẳn đã khiến nhiều người nghi ngờ về số lợi nhuận của ông Bernard Madoff, người gần đây đã bị buộc tội lừa đảo. Chiến lược của ông theo như quảng cáo sẽ mang lại mức lợi nhuận ít biến động hơn chỉ số chính của thị trường. Nếu nhà đầu tư đặt nghi vấn về việc tại sao không có tháng nào lợi nhuận âm trong bối cảnh thị trường khó khăn như vừa qua, hẳn họ sẽ không bị Madoff lừa.

 

Một số người quản lý quỹ đã thành công trên thị trường trong một khoảng thời gian dài. Vấn đề hiện nay là nhận diện họ trước khi họ thành danh. Biết về họ sau khi họ đã thành công có thể là quá muộn. Tại sao vậy? Những người quản lý quỹ cũng là người bình thường. Không chỉ có vậy, khi quỹ của họ có quy mô ngày một lớn (khi danh tiếng ngày một lớn), họ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn tạo ra lợi nhuận lớn hơn nữa.

 

Thông thường, người ta hay xét đến tương quan giữa mức phí với hiệu quả đầu tư, có nghĩa là nếu nhà quản lý quỹ tương hỗ tính phí 1,5%, đây là mức phí tốt, nhà quản lý quỹ đầu cơ tính phí 2% (và 20% hiệu suất) có nghĩa là hiệu quả đầu tư còn tốt hơn nữa. Bởi nhà đầu tư không thể cùng ồ ạt chiến thắng áp đảo thị trường, tất cả điều này có nghĩa là tiền được chuyển từ nhà đầu tư sang các nhà quản lý quỹ.

 

Lĩnh vực mà lý thuyết thị trường hiệu quả có giá trị nhất lại là ở các ngân hàng. Nhiều người chỉ trích mô hình hoạt động trước đây của ngân hàng, mô hình 3-6-3 , các ngân hàng vay tiền với mức lãi suất 3%, sau đó cho vay lại với lãi suất 6% và cuối cùng đi đánh golf vào lúc 3h chiều, họ chẳng phải làm gì nhiều mà vẫn hưởng lợi lớn. Mô hình này cuối cùng sụp đổ bởi thị trường hoạt động khá hiệu quả, lợi nhuận biên từ việc cho doanh nghiệp vay tiền trở nên quá thấp.

 

Vì thế một số ngân hàng bị hấp dẫn sang hoạt động đầu tư ngân hàng. Các ngân hàng thương mại sử dụng số vốn của riêng họ để hỗ trợ hoạt động tư vấn và vượt trội so với những ngân hàng đầu tư mô hình cũ. Ngân hàng đầu tư kiểu cũ từ bỏ cấu trúc cũ và thu tiền nhờ thị trường chứng khoán hoặc sau đó bị các ngân hàng thương mại thâu tóm.


Bộ phận kinh doanh của ngân hàng giải quyết những công việc mới của ngân hàng và nhanh chóng trở thành trung tâm lợi nhuận của ngân hàng.

 

Vậy những bộ phận kinh doanh này kiếm được tiền bằng cách nào? Có thể do họ khai thác triệt để thông tin do những người còn lại trong nhóm thu thập được. Điều này phần nào đặt họ vào thế xung đột với khách hàng. Hoặc họ đang tận dụng lợi thế chi phí giá thấp giả tạo.

 

Đối với các ngân hàng thương mại, chi phí này ở mức thấp bởi họ được đảm bảo bởi các khoản tiền gửi. Nếu không có những đảm bảo trên, người tiết kiệm sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn từ ngân hàng có bộ phận kinh doanh này để phản ánh chính xác rủi ro liên quan đến thị trường. Khi kinh tế thuận lợi, họ chiến thắng thị trường, những người giao dịch hưởng rất nhiều thưởng. Khi kinh tế khó khăn, người đóng thuế thắt chặt hầu bao.

 

Người ta đặt ra một câu hỏi, nếu các nhà điều tiết thị trường nghĩ rằng thị trường hoạt động đã quá hiệu quả và không cần phải can thiệp, làm sao họ có thể cho phép các ngân hàng tham gia vào một hoạt đông mà sau khi trừ đi các khoản thưởng, cuối cùng là một trò chơi mà không ai là người thắng cuộc.

 

Ngọc Diệp

Theo Economist

ngocdiep

Trở lên trên