Nghề canh tiền cho các đại gia
Ngân hàng thích nhà giàu vì họ có nhiều tiền để đầu tư và chi trả cho dịch vụ tư vấn hơn nhà nghèo.
- 31-12-2012Cơ hội từ luồng kiều hối
- 24-12-2012Big Data (2): Thung lũng Silicon vs. Phố Wall
- 21-12-2012Big Data (1): Lá chắn tên lửa từ những con số
- 19-12-2012Chồi non từ địa ngục Tây Ban Nha
Kỳ trước: Cơ hội từ luồng kiều hối
“Về
mặt chiến lược mà nói, tôi nghĩ về các triệu phú và tỷ phú”, Giám đốc Bộ phận
Quản lý tài sản tại ngân hàng Thụy Sỹ UBS, ông Jürg Zeltner, nói. Giới lãnh đạo
ngân hàng lớn nào cũng vậy. Nhưng ít ai có khả năng.
Doanh
thu từ dịch vụ ngân hàng cho khách bình dân giảm xuống nên nhiều ngân hàng
thuộc top đầu đều kỳ vọng sẽ thu được biên lợi nhuận lớn hơn nhờ phục vụ giới
nhà giàu. Ấy thế mà biên lợi nhuận của ngành quản lý tài sản và ngân hàng cá
nhân (private banking) đang tụt dần, còn các đối thủ mới từ ngoài ngành ngân
hàng lại đang nhăm nhe nhảy vào cuộc.
Giàu thì … quý
Chẳng
cần phải nói, ngân hàng thích nhà giàu vì họ có nhiều tiền để đầu tư và chi trả
cho dịch vụ tư vấn hơn nhà nghèo.
Dù mỗi ngân hàng định nghĩa một kiểu
thế nào là “giàu”, nhưng xét một cách tương
đối, khách nào có tài sản tài chính trên 1 triệu USD (không tính nhà ở và vốn
kinh doanh) được xếp vào loại “giàu” (high-net-worth individual), còn từ 10 đến
30 triệu USD được gọi là “siêu giàu” (ultra-high-net-worth individual).
Boston
Consulting Group ước tính tổng tài sản đầu tư của nhà giàu trên toàn thế giới
vào khoảng 122 nghìn tỷ USD, đủ mua sạch cổ phiếu ở SGDCK New York 10 lần. Con
số Capgemini và Merrill Lynch ước tính khiêm tốn hơn, vào khoảng 43 nghìn tỷ
USD.
Dù
số nào đúng đi chăng nữa, thị trường này chắc chắn cũng đủ lớn để người ta phải
thèm muốn. Và mọi người đều đồng thuận rằng không những lớn, nó còn đang tăng
trưởng mạnh.
Các
nước giàu vẫn sở hữu phần lớn của cải trên thế giới: 1/3 ở Mỹ, 1/3 ở Châu Âu.
Dù vậy nơi tăng trưởng nhanh nhất là ở Châu Á, tài sản giới nhà giàu ở đây năm
2010 tăng gần 20% (xem đồ thị).
Thị
trường này lớn và rất béo bở. Trước khủng hoảng tài chính 2007-2008, các ngân
hàng cá nhân (private bank) thường thu phí bằng 1% tài sản quản lý. Ngân hàng
nào đóng tại các trung tâm “ở hải ngoại” như Thụy Sỹ (vốn đề cao tính bảo mật)
hay thu phí cao hơn một chút còn ngân hàng nào ở Mỹ thu phí thấp hơn một chút.
Theo
McKinsey, thu phí như thế giúp ngân hàng có biên lợi nhuận bằng 0,35% tài sản
quản lý. Ngoài ra, ngành này còn có nhiều điểm hấp dẫn khác như dự trữ bắt buộc
thấp và có lợi cho bảng cân đối kế toán vì các “đại gia” thường cho ngân hàng
vay nhiều hơn là vay lại từ ngân hàng.
Các
quy định mới về vốn khiến ngành này lại càng hấp dẫn hơn (trừ quy định về bảo
mật ngân hàng). Quy tắc Basel 3 yêu cầu ngân hàng dự trữ nhiều vốn hơn để giải
quyết nợ xấu, nên nhiều ngân hàng giảm cho vay và mở rộng sang các dịch vụ cần
ít vốn như ngân hàng cá nhân.
Các
ngân hàng còn phải tìm nhiều vốn từ tiền gửi hơn thay vì chủ yếu phụ thuộc vào
thị trường vốn “đỏng đảnh” như trước, nên họ lại càng có lý do để
“chèo kéo” giới nhà giàu.
Miếng
ngon khó nhá
Dù
thế chẳng mấy ngân hàng chiếm được thị phần đáng kể. Scorpio Partnership, công
ty chuyên thu thập dữ liệu về ngành này, cho biết 20 ngân hàng cá nhân và công
ty quản lý tài sản lớn nhất chỉ trông coi hơn 11 nghìn tỷ USD. Thị trường manh
mún như vậy nên vừa hấp dẫn các “tay chơi” mới, vừa khiến “người cũ” sốt ruột
muốn chiếm thêm phần.
“Tỷ
phú nào cũng có tài khoản tại ngân hàng chúng tôi,” CEO Sergio Ermotti của UBS
nói. Dù vậy, ông vẫn nghĩ dư địa để ngân hàng mình tăng thị phần vẫn còn rất
nhiều, đặc biệt là chào mới khách hiện tại thêm các dịch vụ mới.
Nhưng
nói vẫn dễ hơn làm. Người giàu có yêu cầu khắt khe hơn và phục vụ họ cũng tốn
kém hơn. Phần lớn các ngân hàng cá nhân và công ty quản lý tài sản đều cân đối
thu chi bằng cách phục vụ mỗi đối tượng khách hàng một chất lượng dịch vụ khác
nhau.
Muốn
kiếm tiền từ dân siêu giàu phải cần tới “siêu dịch vụ”, và phải tư vấn được bất
kỳ thứ gì họ muốn, từ tìm mối mua thuyền buồm tới gửi con vào học trường nào
tốt nhất. Muốn tư vấn được như thế không rẻ chút nào, và nhu cầu của khách đa
dạng nên khó nói tới chuyện “lợi thế theo quy mô”.
Các
nhân viên ngân hàng cá nhân xuất sắc nhất thường rất có giáo dục và rất am hiểu
thị trường tài chính, cỡ như họ phải tương đương với tầm giám đốc đầu tư tại
các công ty quản lý quỹ. Nếu họ tốt
nghiệp các trường dành tiếng, trên 50 tuổi và biết chơi polo nữa thì càng
tuyệt.
“Khách
hàng giàu có muốn cấp quản lý của ngân hàng cũng giống như họ,” một nhân viên
ngân hàng cá nhân lưu ý. Nhưng các ngân hàng cũng không muốn các “ngôi sao” của
mình gần gũi khách hàng quá, vì họ ngại nếu người này bỏ việc, họ sẽ kéo khách
hàng theo.
Ở
hai thị trường ngân hàng cá nhân tăng trưởng nhanh nhất là Châu Á và Mỹ Latin,
những vấn đề này lại càng trầm trọng hơn vì thiếu nhân viên có kinh nghiệm, có
tuổi lại càng hiếm. “Ở Châu Á tuổi tác là chuyện cực kỳ quan trọng,” Christian
Edelmann từ công ty tư vấn Oliver Wyman nói. “Không thể để anh nhân viên 30
tuổi đi tư vấn cho “bác” doanh nhân ngoại ngũ tuần được.”
Chi
phí thuê nhân viên ngân hàng cá nhân đang tăng trong khi doanh thu từ dịch vụ
này lại giảm. Kể từ khủng hoảng tài chính, phí ở phần lớn các nước giàu đã giảm
10-20%. Phần nào là vì giới nhà giàu
không vui khi tài sản của mình rớt không phanh. Nhiều người chuyển tiền từ các
tài sản rủi ro hoặc phức tạp sang các tài sản an toàn hơn như trái phiếu chính
phủ và tiền mặt (lợi tức thấp hơn nên phí thu về cũng thấp hơn).
Hơn
nữa, cạnh tranh về phí đang gia tăng, đặc biệt là ở top đầu. Vài thập kỷ qua
nhiều tỷ phú đã lập ra các “văn phòng tại gia” để làm những việc trước vẫn phải
thuê giới ngân hàng tư nhân. Các nhà quản lý đầu tư họ thuê về thường đàm phán
“rắn” hơn về chuyện phí.
“Khách
hàng siêu giàu nay chẳng khác gì khách hàng tổ chức,” ông Ermotti từ ngân hàng
UBS nói. “Chúng tôi làm việc với họ như làm việc với khách hàng tổ chức của bộ
phận ngân hàng đầu tư.”
Các
“đại gia” nay cư xử không khác gì khách hàng tổ chức, nên các ngân hàng đầu tư
lớn lại dễ dành được khách hơn. Trong mảng này Goldman Sachs và Barclays vẫn
năng nổ hơn cả.
Các
ngân hàng đầu tư còn giúp khách nhà giàu có cơ hội đầu tư vào các công ty trước
khi niêm yết. Ví dụ như Goldman Sachs đã dàn xếp một vụ chào bán riêng lẻ 1,5
tỷ USD cổ phiếu Facebook hồi tháng 1/2011 cho các khách hàng cá nhân ở ngoài
nước Mỹ.
Ở
Châu Á và Mỹ Latin, các ngân hàng đầu tư tầm cỡ đang gắng sức hút tiền về cho
hai bộ phận ngân hàng đầu tư và khách hàng doanh nghiệp. Điều này cũng góp phần
thu hẹp biên lợi nhuận của các công ty quản lý tài sản truyền thống, buộc họ
phải mở rộng đối tượng khách hàng từ giới siêu giàu tới cả những người “hơi
giàu”.
Đón đọc kỳ tiếp theo: Giành giật những khách “hơi giàu”
Minh
Tuấn