MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Thị trường ngày 1/9: Giá dầu thô Mỹ tăng 2 USD/thùng, vàng gần mức cao nhất 1 tháng

01-09-2023 - 08:12 AM | Thị trường

Chốt phiên giao dịch ngày 31/8, giá dầu thô Mỹ tăng 2 USD/thùng, vàng gần mức cao nhất 1 tháng, nhôm cao nhất hơn 3 tuần, quặng sắt cao nhất 5 tuần, trong khi đậu tương, lúa mì giảm.

Giá dầu thô Mỹ tăng 2 USD/thùng

Giá dầu thô Mỹ tăng 2 USD/thùng và tăng tháng thứ 3 liên tiếp, do dự kiến việc cắt giảm sản lượng bởi nhóm các nước sản xuất dầu OPEC+, dẫn đầu là Saudi Arabia sẽ kéo dài đến cuối năm 2023.

Chốt phiên giao dịch ngày 31/8, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 10/2023 tăng 1 USD tương đương 1,2% lên 86,86 USD/thùng và dầu thô Brent kỳ hạn tháng 11/2023 tăng 1,59 USD tương đương 1% lên 86,83 USD/thùng, dầu thô Tây Texas WTI tăng 2 USD tương đương 2,5% lên 83,63 USD/thùng.

Tính chung trong tháng 8/2023, giá dầu Brent tăng 1,5% và dầu WTI tăng 2,2%. Cả hai loại dầu đều tăng tháng thứ 3 liên tiếp, do các dấu hiệu nguồn cung thắt chặt.

Các nhà phân tích dự kiến Saudi Arabia sẽ gia hạn việc cắt giảm sản lượng dầu tự nguyện 1 triệu thùng/ngày cho đến tháng 10/2023, bổ sung vào mức cắt giảm của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, được gọi là OPEC+.

Đồng thời, tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước giảm 10,6 triệu thùng, cao hơn so với dự kiến, do xuất khẩu cao và hoạt động lọc dầu, số liệu của chính phủ cho biết.

Giá khí tự nhiên giảm

Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm 1%, do tồn trữ cao hơn so với dự kiến, tình trạng ngừng hoạt động liên tục do bão Idalia và dự báo nhu cầu sẽ ít hơn trong những tuần tới bởi thời tiết mát hơn theo mùa làm giảm việc sử dụng điều hòa không khí.

Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn New York giảm 2,8 US cent tương đương 1% xuống 2,768 USD/mmBTU. Trong phiên trước đó, giá khí tự nhiên cao nhất kể từ ngày 9/8/2023.

Giá vàng gần mức cao nhất 1 tháng, bạch kim giảm

Giá vàng duy trì vững, dao động gần mức cao nhất 1 tháng, sau khi lạm phát của Mỹ như dự kiến và số liệu việc làm suy giảm đã củng cố kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ giữ nguyên lãi suất trong năm nay.

Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 0,1% xuống 1.940,23 USD/ounce – gần mức cao nhất kể từ ngày 2/8/2023 (1.948,79 USD/ounce) trong phiên trước đó và vàng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn New York giảm 0,4% xuống 1.965,9 USD/ounce.

Lạm phát của Mỹ được đo bằng chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) tăng 0,2% trong tháng 7/2023, phù hợp với mức tăng của tháng 6/2023. Trong 12 tháng đến tháng 7/2023, chỉ số giá PCE tăng 3,3%, sau khi tăng 3% trong tháng 6/2023.

Chi tiêu tiêu dùng của Mỹ - chiếm hơn 2/3 hoạt động kinh tế của nước này đã tăng mạnh trong tháng 7/2023. Đồng thời, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu hàng tuần giảm 4.000 xuống còn 228.000, so với mức trung bình 4 tuần là 237.500.

Giá bạch kim giảm 0,8% xuống 966,05 USD/ounce, song vẫn có tháng tăng thứ 2 liên tiếp.

Giá đồng giảm, nhôm cao nhất hơn 3 tuần

Giá đồng giảm, do lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc giảm mạnh, làm gia tăng triển vọng nhu cầu giảm, cùng với đó là đồng USD tăng mạnh đã gây áp lực thị trường.

Giá đồng trên sàn London giảm 0,6% xuống 8.425 USD/tấn. Giá đồng có tháng giảm đầu tiên kể từ tháng 5/2023.

Chỉ số quản lý sức mua (PMI) chính thức của Trung Quốc cho thấy, hoạt động sản xuất giảm tháng thứ 5 liên tiếp trong tháng 8/2023, duy trì áp lực buộc Bắc Kinh phải tăng cường chính sách hỗ trợ cho nền kinh tế.

Ngoài ra, giá đồng chịu áp lực giảm bởi tồn trữ tại London đạt 102.900 tấn, tăng 90% kể từ ngày 12/7/2023 và đạt mức cao nhất kể từ tháng 10/2022.

Trong khi đó, giá nhôm trên sàn London đạt 2.229 USD/tấn – cao nhất hơn 3 tuần, do dự kiến nhu cầu từ nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – tăng mạnh, trong khi tồn trữ nhôm sử dụng trong vận chuyển, đóng gói và xây dựng ở mức thấp. Tồn trữ nhôm tại Thượng Hải giảm gần 70% xuống 98.114 tấn kể từ giữa tháng 3/2023 và chạm mức thấp nhất kể từ cuối tháng 6/2023.

Nhập khẩu nhôm của Trung Quốc trong tháng 7/2023 tăng 20,1% so với cùng tháng năm ngoái lên 231.452 tấn. Tính chung, nhập khẩu trong 7 tháng đầu năm 2023 tăng 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái lên 1,43 triệu tấn.

Giá quặng sắt cao nhất 5 tuần, thép tăng

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao nhất 5 tuần, được củng cố bởi số liệu kinh tế tốt hơn mong đợi và 1 loạt các biện pháp kích thích mới nhất tại Trung Quốc – nước tiêu thụ quặng sắt lớn nhất thế giới.

Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Đại Liên tăng 3,54% lên 849 CNY (116,47 USD)/tấn – cao nhất kể từ ngày 1/8/2023.

Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Singapore tăng 1,9% lên 116,6 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 26/7/2023.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,27% lên 3.740 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 1,89%, thép cuộn tăng 0,07% và thép không gỉ tăng 0,93%.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng tháng đầu tiên trong 7 tháng

Giá cao su tại Nhật Bản ghi nhận tháng tăng đầu tiên trong 7 tháng, được hỗ trợ bởi triển vọng các biện pháp kích thích mạnh mẽ và số liệu sản xuất tại Trung Quốc ổn định, cũng như đồng JPY suy yếu.

Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn Osaka tăng 1 JPY tương đương 0,5% lên 214,2 JPY (1,47 USD)/kg. Tính chung cả tháng, giá cao su tăng 6,8%.

Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 40 CNY lên 13.330 CNY (1.828,88 USD)/tấn.

Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Singapore giảm 3,1% xuống 132,5 US cent/kg.

Sản lượng nhà máy của Nhật Bản trong tháng 7/2023 giảm nhiều hơn so với dự kiến.

Một cuộc khảo sát chính thức cho thấy, hoạt động sản xuất của Trung Quốc giảm tháng thứ 5 liên tiếp trong tháng 8/2023, song với tốc độ chậm hơn dự kiến.

Giá cà phê tăng tại Việt Nam, không thay đổi tại Indonesia, cao nhất 2 tuần tại New York và London

Giá cà phê tại Việt Nam tăng, theo xu hướng giá cà phê tại London tăng do lo ngại nguồn cung, trong khi giá cà phê tại Indonesia không thay đổi khi vụ thu hoạch kết thúc.

Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 64.900-66.000 VND (2,7-2,74 USD)/kg, tăng so với 63.900 - 64.700 VND/kg 1 tuần trước đó.

Rabobank điều chỉnh giảm sản lượng cà phê Việt Nam trong niên vụ sắp tới xuống 29 triệu bao (60 kg), giảm 0,5 triệu bao so với dự kiến.

Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2023 giảm 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 1,2 triệu tấn, tương đương 20 triệu bao (60 kg). Trong đó, xuất khẩu cà phê trong tháng 8/2023 ước đạt 90.000 tấn, với kim ngạch đạt 267 triệu USD.

Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 500 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn London, không thay đổi so với 1 tuần trước đó.

Xuất khẩu cà phê robusta của Indonesia trong tháng 7/2023 đạt 15.133,55 tấn, giảm 10,3% so với cùng tháng năm ngoái, tăng so với 14.858,1 tấn xuất khẩu trong tháng 6/2023.

Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 0,85 US cent tương đương 0,5% xuống 1,545 USD/lb, sau khi tăng lên mức cao nhất 2 tuần (1,576 USD/lb). Tính chung cả tháng, giá cà phê arabica giảm 6,1%.

Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/20023 giảm 7 USD tương đương 0,3% xuống 2.489 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 2 tuần (2.529 USD/tấn).

Giá đường giảm

Giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn London giảm 14,8 USD tương đương 2% xuống 715,2 USD/tấn, giảm từ mức cao nhất 12 năm (740,2 USD/tấn) trong phiên trước đó.

Đồng thời, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn ICE giảm 0,28 US cent tương đương 1,1% xuống 25,06 US cent/lb.

Giá đậu tương, ngô và lúa mì giảm

Giá đậu tương trên sàn Chicago giảm phiên thứ 3 liên tiếp, song kết thúc tháng vẫn tăng do hoạt động xuất khẩu mới đây và lo ngại thời tiết khô ảnh hưởng đến năng suất cây trồng đã hỗ trợ giá.

Trên sàn Chicago, giá đậu tương giảm 18 US cent xuống 13,68-3/4 USD/bushel, giảm mạnh nhất kể từ ngày 15/8/2023. Tuy nhiên, tính chung cả tháng giá đậu tương tăng 2,68% - tháng tăng mạnh nhất kể từ tháng 6/2023. Giá lúa mì giảm 5 US cent xuống 6,02 USD/bushel, sau khi giảm xuống 5,93-1/2 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 1/6/2023. Tính chung cả tháng, giá lúa mì giảm 9,69% - tháng giảm mạnh nhất kể từ tháng 11/2022. Giá ngô giảm 2-1/2 US cent xuống 4,78-1/4 USD/bushel. Tính chung cả tháng, giá ngô giảm 6,58% - tháng giảm mạnh nhất kể từ tháng 6/2023.

Giá gạo tăng tại Ấn Độ và Thái Lan, giảm tại Việt Nam

Giá gạo xuất khẩu từ các trung tâm châu Á hàng đầu tăng cao, do các hạn chế đối với các lô hàng từ nước xuất khẩu hàng đầu - Ấn Độ - làm dấy lên mối lo ngại về nguồn cung mặt hàng chủ lực này.

Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức cao kỷ lục 520-540 USD/tấn, tăng so với 450-455 USD/tấn 1 tuần trước đó.

Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm ở mức 635 USD/tấn, tăng so với 630 USD/tấn 1 tuần trước đó, do Ấn Độ thắt chặt xuất khẩu.

Nhu cầu tăng cao song không có người bán, ngay cả khi có nguồn cung mới, thương nhân có trụ sở tại Bangkok cho biết. Thái Lan đã xuất khẩu 5,29 triệu tấn gạo giai đoạn từ 1/1-29/8/2023, tăng gần 12% so với cùng kỳ năm ngoái. Thái Lan hướng tới xuất khẩu 8 triệu tấn gạo trong năm nay.

Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam giảm xuống 640-650 USD/tấn, so với 650-660 USD/tấn 1 tuần trước đó.

Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 1/9

Thị trường ngày 1/9: Giá dầu thô Mỹ tăng 2 USD/thùng, vàng gần mức cao nhất 1 tháng - Ảnh 1.

Minh Quân

Nhịp sống thị trường

Trở lên trên