Kiểm soát rủi ro trái phiếu doanh nghiệp nhưng không can thiệp hành chính vào thị trường
Cần vừa kiến tạo phát triển cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp, vừa kiểm soát được rủi ro, sớm hoàn thiện hành lang pháp lý. Cơ quan quản lý kiểm soát nhưng không nên can thiệp hành chính quá nhiều vào thị trường.
- 23-05-2022Đề nghị giám sát thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản
- 22-05-2022Nợ xấu ở cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp “xanh vỏ, đỏ lòng”
- 21-05-2022Dữ liệu mới nhất thông tin nợ xấu, tín dụng bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp
- 20-05-20226 vấn đề trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
Báo cáo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy, 5 năm qua, thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở nước ta có tốc độ tăng trưởng mạnh, bình quân tới 46%/năm. Tính đến cuối năm 2021, thị trường có gần 1,2 triệu tỷ đồng được doanh nghiệp huy động qua thị trường trái phiếu, chiếm khoảng 12% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế, tương đương khoảng 15% GDP. Nhưng quy mô này vẫn thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực, như Malaysia là 56% GDP, Singapore là 38% GDP và ở Thái Lan là 25% GDP.
Đáng chú ý là 3 tháng đầu năm nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang có dấu hiệu hạ nhiệt vì một số chính sách mới, làm giảm cơ hội tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Đặc biệt, chuyên gia đánh giá, dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 153 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, có xu hướng “chấn chỉnh” quá chặt hoạt động này, sau một vài vụ việc vi phạm đơn lẻ vừa qua.
Ông Đậu Anh Tuấn, phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhìn nhận: “Nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư cho là điều kiện quá cao có nguy cơ khóa chặt kênh huy động vốn bằng trái phiếu riêng lẻ. Liệu có nguy cơ nhà đầu tư chuyển sang các hình thức khác chưa có quy định chặt chẽ: kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ vay vốn… hoặc các hình thức hợp đồng hợp tác đầu tư với tổ chức”.
Để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp lành mạnh, minh bạch, ổn định, cần có sự nhận diện đúng vai trò của trái phiếu doanh nghiệp. Đi cùng với đó là có các giải pháp đúng và trúng để đáp ứng các mục tiêu thúc đẩy thị trường vốn hiệu quả và bền vững, đóng góp cho sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp và tăng trưởng của nền kinh tế.
Ông Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia cho rằng: “Cần vừa kiến tạo phát triển cho thị trường, vừa kiểm soát được rủi ro. Hai là cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý. Có rủi ro cơ quan quản lý kiểm soát nhưng chú ý không can thiệp hành chính quá nhiều, thị trường khó phát triển”.
Quý 1 năm 2022, tổng khối lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp đạt hơn 56.670 tỷ đồng. Trong đó, nhóm bất động sản dẫn đầu với hơn 28.580 tỷ đồng. Nhóm các doanh nghiệp xây dựng xếp ở vị trí thứ 2 với tổng giá trị phát hành là 8.280 tỷ đồng. Thứ 3 mới là nhóm ngân hàng. Tuy nhiên theo thống kê của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam, trong tháng 4/2022, toàn thị trường không có đợt phát hành nào của các doanh nghiệp bất động sản. Điều đó cho thấy tác động của các chính sách đối với doanh nghiệp bất động sản trong kế hoạch phát hành trái phiếu là vô cùng rõ ràng.
Trong khi đó, khối bất động sản – xây dựng cũng là khối tham gia phát triển hạ tầng chủ đạo. Việc đứng khựng huy động vốn trái phiếu có thể ảnh hưởng đến cả kế hoạch thúc đẩy phục hồi kinh tế, xã hội khi ngay cả đầu tư công cũng cần sự tham gia của khu vực tư nhân có vốn đối ứng + vốn theo tiến độ. Ngoài ra, sự co cụm của các doanh nghiệp bất động sản nói chung với kênh trái phiếu cũng ảnh hưởng đến các doanh nghiệp làm ăn thật, dự án thật và còn kéo theo 270 ngành phụ trợ trong nền kinh tế.
Việc thị trường trái phiếu doanh nghiệp co cụm, nhưng chưa hoàn toàn thực sự lành mạnh và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, còn có thể tác động xấu đến câu chuyện nợ xấu khi các doanh nghiệp không thể huy động vốn để tiếp tục đảm bảo triển khai như kế hoạch, thậm chí doanh nghiệp có thể bị mất thanh toán, giá trị tài sản phải định giá lại. Do đó, việc xử lý tài sản đảm bảo của nợ xấu của khối ngân hàng thương mại cũng sẽ trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó, cùng với những thông tin tiêu cực về thao túng giá chứng khoán, lo ngại về chính sách siết tín dụng nói chung và áp lực lạm phát gia tăng đã khiến thị trường vốn Việt Nam điều chỉnh rất mạnh./.
VOV