Lãi suất cơ bản: Không nên làm cơ sở định tội cho vay nặng lãi
Việc lấy lãi suất cơ bản làm cơ sở để xác định trần lãi suất vay trong quan hệ dân sự là hoàn toàn không hợp lý.
Quy định về cơ sở xác định trần lãi suất vay tại Bộ luật Dân sự (BLDS) đã gây nhiều tranh cãi và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động NH nói riêng và đến đời sống dân sự nói chung trong suốt thời gian qua. Dự thảo BLDS hiện nay có một số thay đổi trong việc xác định trần lãi suất vay, tuy nhiên vẫn bất hợp lý và chưa khắc phục được những bất cập, khó khăn của quy định tại BLDS hiện hành.
Khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005 quy định “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Dự thảo BLDS tiếp tục lấy cơ sở để xác định trần lãi suất vay là lãi suất cơ bản, cụ thể tại khoản 3 Điều 491 quy định “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại vay tương ứng, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Điểm thay đổi của dự thảo BLDS so với BLDS năm 2005 là trần lãi suất vay trong quan hệ dân sự được nâng từ mức 150% lên thành 200% lãi suất cơ bản do NHNN công bố.
Việc lấy lãi suất cơ bản làm cơ sở để xác định trần lãi suất vay trong quan hệ dân sự là hoàn toàn không hợp lý. Bởi lẽ thứ nhất, mục đích của quy định này là nhằm xác định một trần lãi suất cho vay trong quan hệ dân sự. Tuy nhiên, việc xác định mức trần lãi suất cho vay lại thông qua một lãi suất khác (lãi suất cơ bản) là không cần thiết, gây khó khăn cho các đối tượng áp dụng.
Thứ hai, lãi suất cơ bản theo khái niệm ban đầu (tại Luật Các TCTD năm 1997) và theo thông lệ quốc tế là loại lãi suất có tính cơ sở, nền tảng và thường được NH Trung ương sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ. Chính vì mục đích để định hướng chính sách tiền tệ, không mang tính thị trường, nên lấy lãi suất cơ bản làm cơ sở để xác định trần lãi suất vay trong quan hệ dân sự (mục đích để chống cho vay nặng lãi) là không phù hợp cả về tính chất và mục tiêu của hai loại lãi suất này.
Cũng chính vì không có mối liên quan về tính chất và mục tiêu của các loại lãi suất này, việc nâng trần lãi suất vay trong quan hệ dân sự từ 150% lên thành 200% lãi suất cơ bản cũng hoàn toàn không có cơ sở và cũng khó có thể khắc phục được những bất cập của trần lãi suất vay hiện nay.
Thứ ba, trên thực tế, lãi suất cơ bản do NHNN công bố thường ở mức tương đối thấp và chỉ điều chỉnh tăng, giảm với biên độ nhỏ nhằm tác động ổn định lãi suất thị trường và kiểm soát lạm phát. Do đó, quy định trần lãi suất vay bằng 150% hay bằng 200% lãi suất cơ bản có thể vẫn quá thấp, không khả thi đối với các hợp đồng cho vay dân sự nói chung, hợp đồng cho vay của các TCTD nói riêng và có thể dẫn đến rất nhiều hợp đồng cho vay vô hiệu do trần lãi suất vay được quy định không hợp lý.
Thứ tư, lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ có một mức, không có các mức khác nhau để áp dụng cho các thời hạn vay khác nhau, do đó quy định tại khoản 3 Điều 491 dự thảo BLDS căn cứ vào lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng là không hợp lý và không thể thực hiện được trên thực tế.
Thứ năm, việc giao NHNN công bố lãi suất cơ bản để xác định trần lãi suất vay đối với các hợp đồng vay dân sự là không phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của NHNN, NHNN chỉ quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động NH.
Để góp phần hoàn thiện quy định về trần lãi suất vay tại dự thảo BLDS, cần quy định mức trần lãi suất vay cụ thể ngay tại BLDS (mức lãi suất cụ thể cần được tính toán để phù hợp với tính chất chống cho vay nặng lãi). Cách quy định này được thể hiện tại BLDS của một số nước. Quy định cụ thể ngay mức lãi suất có thuận lợi là tạo sự minh bạch, các bên tham gia quan hệ dân sự có thể biết ngay mức trần lãi suất vay để điều chỉnh hành vi của mình. Và khi giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, các cơ quan có thẩm quyền cũng có thể dễ dàng xác định được thỏa thuận lãi suất của các bên có vi phạm pháp luật hay không và nếu vi phạm thì mức lãi suất cần áp dụng là bao nhiêu.
Để khắc phục hạn chế khó thay đổi trong điều kiện thị trường có biến động khi quy định cụ thể mức trần lãi suất vay ngay tại BLDS, dự thảo BLDS cũng cần có các quy định nguyên tắc về trường hợp phải điều chỉnh mức trần lãi suất vay và giao cho một cơ quan (có thể là Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ) thay đổi mức trần lãi suất vay trong trường hợp đó.
Trong thời gian vừa qua, vì lãi suất cơ bản được gắn liền với trần lãi suất vay trong quan hệ dân sự, nên dường như lãi suất này ít có ý nghĩa trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, nhân cơ hội sửa đổi BLDS lần này, chúng ta cần trả lại khái niệm lãi suất cơ bản theo ý nghĩa và mục đích ban đầu của nó và theo thông lệ quốc tế. Đồng thời cần tìm một cơ sở khác để xác định trần lãi suất vay trong quan hệ dân sự với mục đích chống cho vay nặng lãi và khắc phục được những bất cập về trần lãi suất vay hiện nay.
Nâng trần lãi suất: Liệu có nới lỏng điều kiện với cho vay nặng lãi?