Ai là người phải bồi thường cho các nạn nhân trong vụ cháy chung cư mini?
Vụ hoả hoạn tại chung cư mini ở Hà Nội đã cướp đi sinh mạng của 56 người, làm 37 người bị thương và khiến hàng chục người khác rơi vào cảnh không có nơi ở, tài sản bị thiệt hại, vậy ai là người phải có trách nhiệm bồi thường cho các nạn nhân?
Phải làm rõ việc bao che, dung túng cho vi phạm
Ngày 15/9, các lực lượng chức năng TP Hà Nội tiếp tục phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ liên quan điều tra nguyên nhân vụ hỏa hoạn xảy ra tại tòa “chung cư mini” ở phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, làm 56 người tử vong và 37 người bị thương.
Hiện chủ tòa nhà nêu trên là Nghiêm Quang Minh (SN 1979, trú tại phường Yên Hòa, Cầu Giấy) đã bị bắt tạm giam điều tra về tội “Vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy” theo điều 313 Bộ luật Hình sự.
Nhìn nhận dưới góc độ pháp lý về vụ hỏa hoạn đặc biệt nghiêm trọng này, luật sư Đặng Văn Cường (Trưởng Văn phòng luật sư Chính Pháp) cho rằng, trách nhiệm đầu tiên thuộc về chủ đầu tư nếu nguyên nhân cháy xuất phát từ hệ thống điện.
Đồng thời, chủ đầu tư cũng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 3 Điều 313, với khung hình phạt tù từ 6 - 12 năm tù giam.
Ngoài xử lý hình sự, chủ đầu tư cùng những người có liên quan còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với những tài sản đã mất, chi phí chăm sóc sức khỏe người bị nạn, chi phí mai táng....
Theo luật sư Cường, vụ hỏa hoạn xảy ra cho thấy có “sự buông lỏng quản lý” của chính quyền sở tại. Do đó, cơ quan chức năng cũng sẽ xem xét đến việc cấp phép xây dựng, vấn đề quản lý trật tự xây dựng ở trên địa bàn tại thời điểm công trình thi công. Bởi, theo giấy phép xây dựng, ngôi nhà được cấp phép xây dựng 6 tầng; chiều cao cho phép của công trình không quá 20,2m. Song trên thực tế, chủ đã cho xây lên 9 tầng và 1 tầng tum.
“Phải làm rõ để công trình xây vượt quá giấy phép như vậy có đúng quy định của pháp luật hay không… Chính quyền địa phương, cơ quan quản lý về trật tự xây dựng có biết về hành vi xây dựng sai phép, đã xử lý hay chưa, hình thức xử lý như thế nào, vì sao không buộc tháo dỡ công trình vi phạm hay dung túng cho hành vi sai phạm?...”, luật sư Cường nhấn mạnh.
Hiếm chung cư mini đạt tiêu chuẩn
Luật sư Đặng Văn Cường chia sẻ thêm, theo quy định pháp luật, để được gọi là nhà chung cư, tòa nhà đó phải đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn về diện tích, kích thước diện tích sử dụng riêng, diện tích sử dụng chung, hành lang, lối thoát hiểm, cầu thang bộ, cầu thang máy, hệ thống điện, hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước, hệ thống thiết bị phòng cháy chữa cháy và các điều kiện tiêu chuẩn kĩ thuật khác…
Còn theo Luật nhà ở 2014, luật sư Cường cho rằng, đã đưa ra định nghĩa nhà chung cư là nhà có từ 2 tầng trở lên, có nhiều căn hộ, có lối đi, cầu thang chung, có phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung và hệ thống công trình hạ tầng sử dụng chung cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, bao gồm nhà chung cư được xây dựng với mục đích để ở và nhà chung cư được xây dựng có mục đích sử dụng hỗn hợp để ở và kinh doanh. Vì thế, một tòa nhà được gọi là chung cư mini, nhà đó có thể là nhà ở do hộ gia đình, cá nhân xây dựng có từ hai tầng trở lên, tại mỗi tầng có từ hai căn hộ trở lên và mỗi căn hộ được thiết kế, xây dựng theo kiểu khép kín.
Như vậy, có thể thấy rằng theo Luật nhà ở từ năm 2014, những nhà ở riêng lẻ do hộ gia đình cá nhân xây dựng mà đáp ứng đầy đủ điều kiện tiêu chuẩn của nhà chung cư cũng có thể được nhà nước cấp giấy chứng nhận cho từng căn hộ để chủ sở hữu nhà ở có quyền bán từng căn hộ. Nhưng tòa nhà đó phải đảm bảo các tiêu chuẩn điều kiện theo quy định của pháp luật, đảm bảo thiết kế an toàn về phòng cháy chữa cháy. Những tòa nhà như thế này gọi là chung cư mini theo cách gọi của người dân.
Tuy nhiên, theo luật sư Cường, thực tiễn cho thấy, rất hiếm trường hợp nào nhà ở riêng lẻ xây thiết kế thành chung cư mini đủ điều kiện tiêu chuẩn để nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đối với từng căn hộ. Thông thường, các công trình xây dựng này đều không đảm bảo tiêu chuẩn kĩ thuật, đặc biệt là điều kiện về phòng cháy chữa cháy…
tienphong.vn