Bảo đảm tính nhất quán, xuyên suốt và đặc thù trong áp dụng Luật Thủ đô
Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát để bảo đảm tính nhất quán và xuyên suốt việc áp dụng Luật Thủ đô trong hệ thống pháp luật, thể hiện tính chất đặc thù của Luật...
- 27-11-2023Kiến nghị cho phép Hà Nội tăng biên chế từ nguồn dự phòng
- 27-11-2023Một mặt hàng đem về cho Việt Nam vài tỷ USD mỗi tháng từ các cường quốc công nghệ Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc…
- 27-11-2023Bình Phước sẽ có 3 cảng cạn đa phương thức phục vụ phát triển kinh tế
Bộ Tư pháp đã gửi tới các đại biểu Quốc hội báo cáo số 380/BC-BTP dự kiến tiếp thu, giải trình bước đầu ý kiến của đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về Dự án Thủ đô (sửa đổi).
Trước đó, ngày 4/10/2023, Chính phủ có Tờ trình số 512/TTr-CP trình Quốc hội Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi). Trên cơ sở Báo cáo thẩm tra số 2273/BC-UBPL 15 ngày 20/10/2023 của Ủy ban Pháp luật và Báo cáo số 3101/BC-TTKQH ngày 17/11/2023 của Tổng Thư ký Quốc hội tổng hợp ý kiến đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ, Bộ Tư pháp (cơ quan chủ trì soạn thảo) báo cáo dự kiến tiếp thu, giải trình bước đầu nội dung cơ bản của Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi).
Phạm vi điều chỉnh tương đối toàn diện, bao quát hầu hết các lĩnh vực
Về phạm vi điều chỉnh, một số ý kiến cho rằng, Dự thảo Thủ đô (sửa đổi) cần có cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội hơn so với các địa phương khác và thể hiện được sự phân quyền mạnh mẽ cho chính quyền Thủ đô; các quy định trong dự thảo Luật cần cụ thể, rõ ràng về phạm vi, nội dung phân quyền; lĩnh vực phân quyền phải toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm tính khả thi, thể hiện đặc trưng riêng của Thủ đô. Đồng thời, có cơ chế kiểm soát quyền lực qua việc quy định cụ thể về quy trình, thủ tục thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các cơ quan.
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị chưa nên đưa vào dự thảo Luật những quy định khác với các luật hiện hành mà chưa được thực tiễn kiểm nghiệm hoặc đang được thực hiện thí điểm ở địa phương khác.
Về ý kiến này, cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo dự kiến tiếp thu, giải trình: nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý; xây dựng cơ chế đặc thù; khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành Luật Thủ đô 2012, Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) có phạm vi điều chỉnh tương đối toàn diện, bao quát hầu hết các lĩnh vực, không chỉ cơ chế, chính sách đặc thù trong một số lĩnh vực như Luật 2012 mà còn quy định về tổ chức chính quyền, việc phân quyền cho chính quyền địa phương trên địa bàn Thủ đô, cũng như việc liên kết, phát triển vùng Thủ đô.
Trong mỗi lĩnh vực đều quy định có tính trọng tâm, trọng điểm. Cùng với việc phân quyền mạnh mẽ, dự thảo Luật quy định tương ứng trách nhiệm của Hà Nội và quy trình, thủ tục, cũng như cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của các cấp chính quyền, của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (Chương VI dự thảo Luật).
Mặt khác, dự thảo Luật quy định những chính sách đặc thù và vì vậy sẽ vượt hoặc khác với các Luật hiện hành. Điều này đã được phân tích, đánh giá tác động và sẽ là căn cứ tạo động lực mới trong xây dựng, bảo vệ, phát triển Thủ đô theo hướng toàn diện và bền vững.
Hạn chế đưa quy định vô hiệu hóa cơ chế, chính sách đặc thù của Luật Thủ đô
Về áp dụng Luật Thủ đô, có ý kiến cho rằng, quy định như dự thảo Luật có thể sẽ phát sinh thêm thủ tục hành chính, làm chậm quá trình xây dựng văn bản để tổ chức thực hiện; do đó, đề nghị bổ sung trách nhiệm của chính quyền thành phố Hà Nội, Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội trong việc phối hợp với các Bộ, ngành để kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý vấn đề phát sinh.
Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) quy định Điều 4 về áp dụng Luật Thủ đô – đây là quy định mới, chưa có trong Luật Thủ đô năm 2012.
Khoản 1 Điều 4 Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) quy định rõ nguyên tắc ưu tiên áp dụng quy định của Luật Thủ đô có nội dung khác so với quy định về cùng vấn đề tại các luật, nghị quyết khác của Quốc hội đang có hiệu lực.
Khoản 2 Điều 4 quy định cơ chế mới, có tính đặc thù, khác so với nguyên tắc chung về áp dụng pháp luật của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể là không đương nhiên áp dụng quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội ban hành sau nếu có nội dung khác với quy định của Luật Thủ đô về cùng vấn đề. Trong trường hợp này, theo Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), việc áp dụng quy định của Luật Thủ đô hay áp dụng quy định của luật, nghị quyết khác của Quốc hội ban hành sau phải được xác định cụ thể ngay trong từng luật, nghị quyết đó.
Đồng thời, nghiên cứu, bổ sung trong dự thảo Luật quy định những nội dung Luật Thủ đô giao Chính phủ, HĐND, UBND TP Hà Nội quy định chi tiết, quy định cơ chế, chính sách đặc thù cho TP thì nội dung này có thể khác với quy định của các luật khác, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên.
Về ý kiến này, cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo dự kiến tiếp thu, giải trình, quy định tại Điều 4 dự thảo Luật có thể làm phát sinh thêm trách nhiệm của các cơ quan trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, nhưng sẽ phát huy giá trị và hiệu lực của Luật Thủ đô, vừa bảo đảm nguyên tắc về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, không phá vỡ tính ổn định, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Để thực hiện hiệu quả quy định này, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ tiếp tục nghiên cứu, rà soát để bảo đảm tính nhất quán và xuyên suốt việc áp dụng Luật Thủ đô trong hệ thống pháp luật, thể hiện tính chất đặc thù của Luật, của các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả.
Đồng thời, nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật để xác định những quy định có liên quan khác với quy định của Luật Thủ đô. Qua đó, hạn chế việc đưa ra những quy định mâu thuẫn, chồng chéo; thậm chí vô hiệu hóa các cơ chế, chính sách đặc thù của Luật Thủ đô.
Theo đó, khoản 2 Điều 55 của Dự thảo Luật yêu cầu khi xây dựng các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội thì các Bộ, cơ quan ngang bộ phải rà soát các quy định của Luật Thủ đô, nếu có quy định thuận lợi hơn so với Luật Thủ đô thì cần thống nhất ý kiến với chính quyền thành phố Hà Nội trong việc xác định việc áp dụng theo Luật Thủ đô hoặc áp dụng theo luật, nghị quyết đó.
Điểm d khoản 5 Điều 57 dự thảo Luật giao UBND TP Hà Nội nhiệm vụ: “tham gia ý kiến về các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội có quy định liên quan đến các chính sách, cơ chế đặc thù quy định tại Luật này”.
Kinh tế Đô thị