Cập nhật 3 kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020
Theo TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay đã rất rõ nét, nghiêm trọng hơn rất nhiều so với các dự báo trước đây.
- 14-04-2020VEPR dự báo 3 kịch bản kinh tế cho Việt Nam năm 2020: Lạc quan nhất là tăng trưởng 4,2%
- 10-04-2020Cập nhật 3 kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 trong bối cảnh đại dịch Covid-19
-
Ở kịch bản cơ sở, GDP Việt Nam năm nay sẽ tăng 5,5-6%. Ở kịch bản tích cực hơn, tăng trưởng cả năm có khả năng đạt 6-6,5%.
Đại dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực nghiêm trọng đến toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội toàn cầu. Trong 6 tháng qua, các tổ chức quốc tế liên tục hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu và các nước năm 2020. Trong báo cáo mới nhất (tháng 6/2020), IMF dự báo kinh tế thế giới rơi vào suy thoái sâu năm 2020, giảm 4,9% và WB dự báo giảm khoảng -5,2%; mức suy thoái sâu hơn nhiều so với khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 (khi đó, năm đáy khủng hoảng là 2009 với GDP toàn cầu giảm 1,67% - theo WB).
Đối với Việt Nam, dù là một trong số ít nước kiểm soát dịch Covid-19 thành công, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong 6 tháng qua khi tăng trưởng GDP quý 2 chỉ đạt 0,36% và 6 tháng đầu năm đạt 1,81% - là mức thấp nhất trong 10 năm qua, song vẫn là 1 trong số ít quốc gia có được mức tăng trưởng dương. Hiện nay, tình hình dịch bệnh vẫn hết sức phức tạp, chưa được kiểm soát ở nhiều quốc gia và tiếp tục có những tác động mạnh đến kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam. Vì vậy, cần thiết phải thường xuyên theo dõi tình hình dịch bệnh, đánh giá ảnh hưởng tới kinh tế thế giới và trong nước; để xây dựng kịch bản và kế hoạch ứng phó kịp thời; nhất là những chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, phục hồi sản xuất, kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội.
Tiếp theo Báo cáo kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam (tháng 4/2020); Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV thực hiện Báo cáo cập nhật đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 và kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020. Báo cáo tập trung vào 3 nội dung chính: (i) Khái quát diễn biến và tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế thế giới năm 2020; (ii) Cập nhật đánh giá tác động và kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020; và (iii) Một số kiến nghị.
Khái quát diễn biến đại dịch Covid-19
Dịch Covid-19 có những diễn biến phức tạp trong quý 2/2020. Số ca nhiễm trên thế giới đã tăng nhanh từ 853 nghìn ca ngày 31/3/2020 lên gần 14,66 triệu ca nhiễm đến hết ngày 20/7/2020, hơn 609 nghìn ca tử vong. Các nước và khu vực vẫn còn đang phải đối mặt với sự lây lan nghiệm trọng của dịch gồm Mỹ, Braxin, Ấn Độ, Nam Phi, khu vực Nam Mỹ, Nam Á, Trung Đông...v.v. Đến nay, dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, khó lường, một số nước xuất hiện làn song thứ 2 và chưa có dấu hiệu kết thúc.
Tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế thế giới năm 2020
Trong 6 tháng đầu năm 2020, hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch, sản xuất kinh doanh (cả phía cung và cầu) bị đình trệ do tác động tiêu cực bởi đại dịch Covid-19, nguy cơ bùng phát trở lại khi các nước khôi phục hoạt động kinh tế - xã hội.
Đối với hoạt động đầu tư, theo UNCTAD (6/2020), tình hình dịch bệnh khiến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu năm 2020 giảm khoảng -40% so với năm 2019 và tiếp tục giảm từ -5% đến -10% trong năm 2021. Về thương mại, theo WTO (6/2020), dự báo thương mại toàn cầu năm 2020 sẽ giảm khoảng -13% đến -32% so với năm 2019 (tùy diễn biến dịch bệnh); trong khi WB và IMF (6/2020) dự báo mức giảm từ -11,9% đến -13,4% trong năm 2020.
Theo đó, suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2020 đã rõ rệt. Theo ADB (6/2020), kinh tế toàn cầu sẽ thiệt hại từ 5,8-8,8 tỷ USD (tương đương 6,4-9,7% GDP toàn cầu). IMF (6/2020) dự báo kinh tế toàn cầu sẽ suy giảm -4,9%, Mỹ -8%, EU -10,2% và Trung Quốc chỉ tăng trưởng 1% năm 2020. Trong khi đó, WB (6/2020) dự báo kinh tế toàn cầu năm 2020 suy giảm -5,2%, trong đó kinh tế các nước phát triển giảm 7%, và các thị trường mới nổi và đang phát triển giảm -3%.
Trong 6 tháng cuối năm, kịch bản tăng trưởng kinh tế thế giới và các nước phụ thuộc vào 3 yếu tố chính: (i) Diễn biến của dịch Covid-19, khả năng kiểm soát dịch và sản xuất vaccine cùng với lộ trình khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia; (ii) Mức độ phù hợp, hiệu quả của các chính sách, gói hỗ trợ của các nước; và (iii) hiệu quả hợp tác quốc tế trong phòng, chống dịch bệnh và khôi phục nền kinh tế.
Cập nhật kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2020
Tại báo cáo cập nhật đánh giá tác động của dịch Covid-19 tới kinh tế Việt Nam tháng 4/2020, Viện ĐT&NC BIDV đã dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo 3 kịch bản (cơ sở, tích cực và tiêu cực) lần lượt ở các mức: 4,81%, 5,4% và 4,07%.
Tuy nhiên, tại báo cáo lần này, Nhóm tác giả nhận thấy tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế - xã hội Việt Nam đã rất rõ nét, nghiêm trọng hơn rất nhiều so với các dự báo trước đây. Theo Tổng cục Thống kê, tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2020 chỉ đạt 1,81% so với cùng kỳ năm 2019 (trong đó, Quý 1 tăng trưởng 3,82%, Quý 2 tăng trưởng 0,36%).
Đối với lần cập nhật này, Nhóm tác giả tiếp tục đánh giá, dự báo tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế Việt Nam từ phía tổng cầu. Tuy nhiên, Nhóm nghiên cứu có bổ sung 4 thành tố khác vào mô hình lượng hóa, gồm: du lịch trong nước (trong lĩnh vực du lịch); dịch vụ khác (như xây dựng, kinh doanh bất động sản, thông tin - truyền thông, hoạt động giúp việc hộ gia đình, cung cấp nước, xử lý rác thải,…) vì những lĩnh vực này có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng chung và ngành dịch vụ chịu tác động mạnh; chi tiêu công khi Chính phủ thực hiện nhiều gói hỗ trợ, tăng chi tiêu công cho các dịch vụ thiết yếu (đặc biệt là dịch vụ y tế); và đầu tư công và đầu tư tư nhân. Kết quả là có đến 8 nhóm ngành, lĩnh vực chính được tính toán và dự báo theo 3 kịch bản được tổng hợp trong Bảng 1 dưới đây.
Với kịch bản cơ sở, các động lực tăng trưởng chính của kinh tế Việt Nam như xuất khẩu, tiêu dùng, đầu tư tư nhân, FDI và du lịch...v.v. đều chịu ảnh hưởng tiêu cực trong bối cảnh dịch bệnh lan rộng toàn cầu và Việt Nam hội nhập sâu rộng. Theo kịch bản này, Nhóm tác giả nhận định, các biện pháp của Chính phủ trong phòng chống dịch tiếp tục được các Bộ, Ngành, địa phương chú trọng triển khai cùng với các chính sách, gói hỗ trợ nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân phát huy hiệu quả; các nước kiểm soát được dịch trong quý 3/2020, không để bùng phát "làn sóng Covid-19 thứ 2 ở diện rộng" và bắt đầu mở cửa giao thương, du lịch quốc tế có chọn lọc từ đầu tháng 10/2020.
Tuy nhiên, một số ngành sẽ có sự hồi phục chậm hơn do còn phụ thuộc vào diễn biến dịch tại một số nước và khu vực (dự báo có thể kéo dài đến hết quý 4/2020), tâm lý và hành vi của người tiêu dùng, nhà đầu tư và doanh nghiệp. Theo đó, lợi nhuận du lịch của Việt Nam năm 2020 dự báo giảm khoảng 65-70% so với nếu không có dịch bệnh; tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu giảm nhẹ 1-2%; lợi nhuận ngành vận tải - kho bãi giảm khoảng 5% (chủ yếu giảm tại phân ngành vận tải hành khách hàng không, dự báo giảm 45-50% cả năm 2020). Lĩnh vực đầu tư FDI cũng bị ảnh hưởng tiêu khi niềm tin của nhà đầu tư phụ thuộc lớn vào diễn biến dịch (dù có sự dịch chuyển đầu tư và chuỗi sản xuất nhưng đòi hỏi có thời gian và dịch chuyển dần dần), đầu tư công và đầu tư tư nhân sẽ gia tăng mạnh, tổng đầu tư toàn xã hội dự báo tăng khoảng 1-1,5% cả năm 2020. Về tiêu dùng, trong khi tiêu dùng (cá nhân) giảm nhẹ (chủ yếu do thu nhập giảm và thay đổi hành vi tiêu dùng), Chính phủ tăng chi ngân sách cho các lĩnh vực, đặc biệt là y tế, an sinh xã hội, song không tăng mạnh do còn áp lực bội chi ngân sách và lạm phát; dự báo tăng khoảng 2-3%.
Với kịch bản này, tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 đạt khoảng 3% (trong đó quý 3 ước tăng 4,5% và quý 4 ước tăng 4,61%).
Với kịch bản tích cực, các nước trên thế giới nỗ lực kiểm soát và sớm đạt được kết quả tích cực trong phòng, chống dịch bệnh và đại dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát vào cuối tháng 8/2020; hoạt động giao thương, sản xuất - kinh doanh được khôi phục ngay sau đó. Còn tại Việt Nam, dịch được khống chế cộng với sự lan tỏa từ việc các nền kinh tế đối tác quan trọng của Việt Nam có sự hồi phục nhanh sau Covid-19 như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN, Mỹ, EU… các hoạt động giao thương được mở cửa trở lại từ đầu tháng 9/2020. Khi đó, doanh thu du lịch năm 2020 dự báo giảm khoảng 50% so với mức không có dịch bệnh; tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu tăng nhẹ 0,5-1%; lợi nhuận ngành vận tải - kho bãi chỉ giảm nhẹ 3-3,5%; đầu tư tuy có gặp khó khăn nhưng môi trường đầu tư được đảm bảo, giải ngân FDI giảm nhẹ (-1%), đầu tư công và đầu tư tư nhân tăng nhẹ 2-3% so với mức không có dịch bệnh; Chính phủ bổ sung chi tiêu công thêm khoảng 1% (chủ yếu cho hoạt động y tế). Theo kịch bản này, dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 có thể đạt 4%.
Với kịch bản tiêu cực, "làn sóng dịch Covid-19 thứ 2 diễn ra ở diện rộng" trên toàn cầu, đại dịch không thể kiểm soát cho đến hết năm 2020, bất chấp nỗ lực ứng phó của Chính phủ các nước. Còn tại Việt Nam, dịch bệnh tiếp tục được kiểm soát, nhưng các đối tác quan trọng của Việt Nam (đặc biệt tại Mỹ, Trung Quốc, EU, ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc) gặp nhiều khó khăn; các hoạt động giao thương tiếp tục bị ngưng trệ, tiêu dùng nội địa giảm khi người dân ưu tiên tiết kiệm, thay đổi mạnh hành vi tiêu dùng trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Khi đó, dự báo doanh thu du lịch Việt Nam giảm đến 75-85%; xuất-nhập khẩu giảm 5,5-8% so với mức không có dịch bệnh; lợi nhuận ngành vận tải - kho bãi giảm 10% (trong đó, vận tải hành khách hàng không giảm 65-70%); đầu tư bị ảnh hưởng mạnh khi tâm lý e ngại tăng mạnh, giải ngân FDI giảm từ 7-8%, đòi hỏi sự đầu tư mạnh hơn từ đầu tư công và đầu tư tư nhân nhằm giảm thiểu thiệt hại kinh tế. Theo đó, dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 chỉ đạt khoảng 1,5%.
Bên cạnh dự báo các kịch bản kinh tế Việt Nam từ phía tổng cầu, Nhóm tác giả cũng thực hiện dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 từ phía tổng cung với cùng giả định và các tác động của đại dịch đối với kinh tế thế giới và Việt Nam. Theo đó, với kịch bản cơ sở, tăng trưởng GDP năm 2020 đạt khoảng 3% nhờ sự đóng góp của khu vực Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản (tăng trưởng 1,27% so với năm 2019), khu vực Công nghiệp - Xây dựng tăng trưởng khoảng 3,6% và khu vực dịch vụ tăng khoảng 2%. Với cả ba kịch bản, tăng trưởng GDP và các lĩnh vực như tại Bảng 2.
Trong cả 3 kịch bản, TS Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV dự báo lạm phát (CPI) bình quân năm 2020 dù đang ở mức 4,19% trong 6 tháng đầu năm nhưng vẫn có thể kiểm soát dưới 4% (khoảng 3,5-3,8%) cả năm 2020 với 4 lý do chính: (i) sức cầu quốc tế và trong nước còn yếu, nên lạm phát do yếu tố cầu kéo ở mức thấp, (ii) giá dầu dù đang tăng trở lại, nhưng bình quân cả năm vẫn giảm khoàng 20-25% so với bình quân năm 2019, giảm mạnh yếu tố chi phí đẩy, (iii) giá thịt lợn dù còn biến động (tăng nhẹ) nhưng về cơ bản sẽ ổn định dần đến hết năm 2020, và (iv) lạm phát do yếu tố tiền tệ tiếp tục giảm (lạm phát cơ bản hết 6 tháng đầu năm 2020 là 2,81%, giảm dần từ 3,25% hồi đầu năm so với cùng kỳ năm trước) và sẽ theo đà giảm với dự báo cung tiền (M2) năm 2020 tăng khoảng 10-12% và tín dụng tăng khoảng 8-10%.
Như vậy, tùy theo diễn biến của dịch Covid-19 tại Việt Nam và trên thế giới, sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống, kinh tế Việt Nam năm 2020 theo kịch bản cơ sở có thể đạt mức tăng trưởng 3% (hoặc từ 1,5% với trường hợp xấu nhất đến 4% với trường hợp tích cực nhất). Kết quả lượng hóa này của Nhóm tác giả cũng khá tương đồng với kết quả dự báo gần đây nhất (6/2020) của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, OECD. Theo đó, các tổ chức dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 ở mức 2,7% (theo IMF) đến 2,8% (theo WB) hay khả quan hơn ở mức 4,1% như dự báo của ADB (tháng 6/2020). Lạm phát bình quân cả năm dự báo ở mức 3,5-3,8%.
Tùy theo diễn biến của dịch Covid-19 tại Việt Nam và trên thế giới, sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống, kinh tế Việt Nam năm 2020 theo kịch bản cơ sở có thể đạt mức tăng trưởng 3% (ảnh minh hoạ)
Một số kiến nghị
Qua đánh giá tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 tới kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam; theo Nhóm tác giả, việc đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,8% năm nay là không khả thi. Tuy nhiên, việc Việt Nam phấn đấu đạt được mục tiêu kép: "phòng chống dịch Covid-19 thành công và đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội ở mức khả quan tối đa", như tăng trưởng GDP đạt khoảng 3%, kiểm soát lạm phát CPI dưới 4% coi như là thành công và đáng ghi nhận.
Trong bối cảnh còn nhiều yếu tố bất lợi từ bên ngoài, để kịch bản cơ sở nêu trên có thể xảy ra, Việt Nam cần phát huy nội lực với quyết tâm cao nhất. Đó cũng sẽ là nền tảng vững để kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng cao trong năm 2021 và sau đó. Theo đó, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV kiến nghị 10 giải pháp trong năm 2020-2021 như sau.
Một là, cần tập trung đẩy nhanh tiến độ và triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp; theo đó, cần: (i) khẩn trương tháo gỡ những vướng mắc (như trong gói 16.000 tỷ đồng cho vay 0% để doanh nghiệp có thể trả lương), (ii) xem xét sớm quyết định cho phép gia hạn thời gian giãn, hoãn thuế, tiền thuê đất (trước mắt là hết năm 2020) để doanh nghiệp đỡ khó khăn về thanh toán chi phí, (iii) sửa đổi Thông tư 01 của NHNN theo hướng gia hạn thời gian giãn, hoãn nợ (đến hết năm 2020) và mở rộng đối tượng được hỗ trợ (hết ngày 10/6/2020 thay vì 23/1/2020 như hiện nay), (iv) tăng khả năng tiếp cập vốn cho DNNVV bằng cách tăng cho vay qua Quỹ phát triển DNNVV và khởi động hoạt động thực chất của các quỹ bảo lãnh vay vốn DNNVV, và (v) mở rộng đối tượng hỗ trợ gồm cả 1 số doanh nghiệp lớn như trong lĩnh vực hàng không, du lịch …(như nhiều nước đang làm), với tiêu chí và điều kiện hỗ trợ cụ thể (quy mô gói tài khóa tăng thêm cho các đầu việc nêu trên có thể khoảng 1-2% GDP). Theo đó, tổng giá trị các gói hỗ trợ của Việt Nam theo tính toán của Nhóm tác giả sẽ khoảng 4-5% GDP. Đồng thời, cần có cơ chế, phân quyền đặc thù cho Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ để có thể ra quyết định nhanh chóng, kịp thời.
Hai là, đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là các thị trường còn nhiều dư địa sau đại dịch như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN, Hoa Kỳ và EU. Đây là 6 thị trường chiếm đến 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; nhất là trong bối cảnh Hiệp định EVFTA giữa Việt Nam – EU sẽ có hiệu lực từ 1/8/2020. Trước mắt, cần đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc – một thị trường đang phục hồi nhanh và truyền thống của Việt Nam.
Ba là, đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công như là một giải pháp bù đắp thiếu hụt động lực tăng trưởng trong năm 2020 và cũng là động lực tăng trưởng dài hạn. Nếu giải ngân hết lượng vốn đầu tư công theo kế hoạch là 700.000 tỷ đồng, tăng khoảng 25% (so với năm 2019) thì sẽ giúp GDP Việt Nam năm 2020 tăng trưởng thêm 0,38 điểm %. Theo đó, cần kiên quyết đẩy nhanh giải phóng mặt bằng, bố trí kịp thời nguồn vốn đối ứng và đẩy nhanh tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA.
Bốn là, tiếp tục thúc đẩy khối kinh tế tư nhân phát triển (cả doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể, đóng góp gần 40% GDP năm 2019); điều này cũng phù hợp với định hướng tập trung khai thác, nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường nội địa và hỗ trợ các DNNVV. Theo tính toán của Nhóm chuyên gia, nếu đầu tư tư nhân (chưa tính đến hộ kinh doanh cá thể) tăng 1%, thì sẽ giúp GDP Việt Nam năm 2020 tăng trưởng thêm 0,16 điểm %.
Năm là, tận dụng cơ hội dịch chuyển vốn đầu tư để thu hút FDI. Theo tính toán của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, nếu giải ngân FDI tăng thêm 1%, thì GDP Việt Nam năm 2020 tăng trưởng thêm 0,08 điểm %. Muốn vậy, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, để vừa tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, vừa tận dụng cơ hội hiếm có này. Cụ thể: (i) Sớm xây dựng và công bố chính sách thu hút dịch chuyển dòng vốn đầu tư; (ii) Rà soát toàn bộ các khu công nghiệp (KCN) để có điều chỉnh linh hoạt về KCN cần ưu tiên mở rộng hoặc xây mới, KCN cần thu hẹp, thu lại; công bố danh sách các KCN sẵn sang về quỹ đất sạch, CSHT…v.v.; (iii) Rà soát, cập nhật, điều chỉnh phù hợp phân cấp phê duyệt đầu tư, tinh gọn qui trình thủ tục về đầu tư nước ngoài, công bố một cách công khai, minh bạch; (iv) Đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện chiến lược, hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế số, mô hình kinh doanh mới gắn với công nghệ số (đây cũng là lĩnh vực NĐT nước ngoài rất quan tâm); (v) Có chính sách, gói hỗ trợ đào tạo nhân lực có tay nghề (nguồn tài trợ từ cả TW và địa phương).
Sáu là, đẩy mạnh kích cầu thị trường nội địa: quy mô tiêu dùng cá nhân của Việt Nam tương đương gần 80% GDP và đóng góp 11,87% GDP năm 2019. Theo đó, nếu tiêu dùng cá nhân tăng 1%, thì sẽ giúp GDP năm 2020 tăng trưởng thêm 0,12 điểm %. Cụ thể, nên nghiên cứu tập trung kích cầu vào một số ngành/lĩnh vực như du lịch, bán lẻ, vận tải, lưu trú, ăn uống…v.v.
Bảy là, cần phát huy thế mạnh của các trụ cột, đầu tàu tăng trưởng, nhất là Hà Nội và Thành phố HCM; hai thành phố này hiện nay đóng góp khoảng 39% GDP cả nước. Vì vậy, nếu hai thành phố này phấn đấu kinh tế tăng trưởng thêm 1 điểm %, sẽ giúp GDP cả nước tăng trưởng thêm 0,39 điểm %.
Tám là, đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế số, Chính phủ điện tử và thanh toán, giao dịch điện tử; vừa là để tăng năng suất lao động, vừa là theo kịp xu thế và giảm rủi ro lây lan dịch bệnh do tương tác trực tiếp. Theo Báo cáo của Tổ chức tư vấn CSIRO (Úc) với đơn đặt hàng từ Bộ Khoa học và Công nghệ, nếu Việt Nam lựa chọn phương án "Chuyển đổi số" tích cực, chủ động; thì GDP Việt Nam có thể tăng thêm 1,1 điểm %/năm. Theo đó, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý đối với một số mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ (cho vay ngang hàng, Fintech, dịch vụ Mobile money, kinh tế chia sẻ, xác thực điện tử...) và đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu định danh cá nhân quốc gia ...v.v.
Chín là, tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc từ bên ngoài. Theo đó, cần tập trung nhiều hơn vào các yếu tố chất lượng, sáng tạo, bao trùm và bền vững; trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm làm chủ một số yếu tố đầu vào vừa là hạn chế nhập khẩu, vừa tăng tính chủ động trong nhiều tình huống khác nhau, vừa tạo việc làm và tăng khả năng kết nối giữa các khối doanh nghiệp. Cùng với đó, cần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp (theo đề án riêng); tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối; lành mạnh hóa hệ thống tài chính, trong đó chú trọng phát triển thị trường vốn, sớm hoàn thiện hành lang pháp lý để doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro về tỷ giá, lãi suất,…v.v; chủ động nắm bắt tính chu kỳ của nền kinh tế và của từng ngành nghề sản xuất, kinh doanh cụ thể cũng như diễn biến thị trường trong nước, quốc tế và xây dựng kịch bản ứng phó phù hợp khi cú sốc xảy ra.
Mười là, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả trong bối cảnh đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp rên phạm vi toàn cầu; bởi vì làm tốt điều này cũng chính là góp phần quan trọng ổn định kinh tế-xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cần thận trọng xem xét thời điểm, lộ trình và phương thức mở cửa phù hợp ra bên ngoài. Cuối cùng, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phòng chống dịch, khai thác hiệu quả nguồn lực hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, ADB, các nhà tài trợ song phương nhằm có thêm nguồn lực hỗ trợ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế; hoàn thành tốt nhất vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực HĐBA Liên Hợp Quốc 2020-2021, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam.