MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Cập nhật đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam đến hết quý 1/2021

14-04-2021 - 10:38 AM | Tài chính - ngân hàng

Cập nhật đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam đến hết quý 1/2021

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV gợi ý 4 giải pháp ngắn hạn để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và đạt mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, trong số đó có 3 gói hỗ trợ với phạm vi tập trung vào 2 lĩnh vực chính gồm du lịch và vận tải, kho bãi.

  • Ở kịch bản cơ sở, GDP Việt Nam năm nay sẽ tăng 5,5-6%. Ở kịch bản tích cực hơn, tăng trưởng cả năm có khả năng đạt 6-6,5%.
  • Phân chia theo khẩu vị rủi ro từ thấp tới cao, kênh tiền gửi tiết kiệm và vàng vẫn được coi là an toàn, nhất là kênh gửi tiết kiệm vẫn hấp dẫn đối với nhiều NĐT trong bối cảnh lãi suất huy động được dự báo sẽ duy trì ở mức cao trong năm 2023.

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo cập nhật đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam đến hết quý 1/2021. Chúng tôi xin đăng tải báo cáo để quý độc giả cùng theo dõi.

--------------

Sau hơn 1 năm bùng phát trên phạm vi toàn thế giới, đại dịch Covid-19 đến nay đã có tác động sâu rộng tới đời sống kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia. Đến hết quý 1/2021, dịch Covid-19 đã lan rộng tới 221 nước với hơn 131 triệu ca nhiễm và hơn 2,8 triệu người chết.

Đối với Việt Nam, dù là một trong số ít các nước kiểm soát dịch Covid-19 thành công, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng nghiêm trọng khi tăng trưởng GDP năm 2020 chỉ đạt 2,91% - là mức thấp nhất trong 10 năm qua, song vẫn là mức tăng trưởng dương và thuộc nhóm cao nhất thế giới.

Đến nay, tình hình dịch bệnh vẫn còn phức tạp khi vẫn còn các đợt bùng phát trở lại cùng với rủi ro biến thể virus mới và tiến trình tiêm vaccine còn gian nan, nhất là tại các nước đang phát triển và thu nhập thấp. Kinh tế thế giới được dự báo sẽ dần hồi phục mạnh từ quý 2 năm 2021 nhưng không đồng đều. Việt Nam được dự báo sẽ có khả năng phục hồi tốt dù quá trình này còn phụ thuộc vào nỗ lực tiếp tục thực hiện thành công mục tiêu kép "vừa phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển KTXH" trong trạng thái bình thường mới. Bên cạnh đó, quá trình hồi phục cũng có sự khác nhau giữa các ngành, lĩnh vực tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng của dịch và đòi hỏi phải có đánh giá để có căn cứ đưa ra quyết sách và các gói hỗ trợ bổ sung phù hợp.

Báo cáo này cập nhật đánh giá tác động của đại dịch tới các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam và từ đó đưa ra một số gợi ý về chính sách và gói hỗ trợ phù hợp.

Cập nhật đánh giá tác động của dịch Covid-19 tới kinh tế thế giới và Việt Nam

Đối với kinh tế thế giới, quý 1/2021 ghi nhận nhiều thông tin tích cực từ nỗ lực nghiên cứu, sản xuất và tốc độ tiêm vaccine phòng Covid-19 nhanh hơn dự kiến, tốc độ lây lan Covid-19 có dấu hiệu giảm; làm tăng triển vọng phục hồi kinh tế kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, tiến trình sản xuất vaccine còn trục trặc (do quá tải, do thiếu nguồn cung); việc phân phối vaccine chưa hợp lý cũng như nghi ngại về hiệu quả của một số vaccine đã khiến một số nước phải đối mặt với nguy cơ bùng phát dịch Covid-19 trở lại. Đánh giá chung, các tổ chức quốc tế đều dự báo triển vọng tích cực đối với kinh tế thế giới trong năm 2021, đặc biệt là từ quý 2. Theo OECD (3/2021), kinh tế thế giới dự báo sẽ tăng trưởng 5,6-6,1% năm 2021, cao hơn từ 1,4-1,9 điểm % so với các dự báo trước đây. Trong khi đó, IMF (4/2021) một lần nữa nâng dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới lên mức 6%năm 2021 (từ mức 5,5% của lần dự báo tháng 1/2021).

Đối với Việt Nam, việc tiếp tục kiên định thực hiện mục tiêu kép đã giúp nền kinh tế dần ổn định trở lại khi thương mại, đầu tư, tiêu dùng hồi phục, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp dù giá hàng hóa thế giới tăng mạnh (CPI bình quân quý 1/2021 chỉ tăng 0,29% so cùng kỳ). Xuất nhập khẩu tăng trưởng mạnh (đạt 152,65 tỷ USD, tăng 24,1% so cùng kỳ) với cán cân thương mại tiếp tục thặng dư 2,8 tỷ USD (theo TCHQ). Đầu tư nước ngoài cũng có dấu hiệu phục hồi với vốn FDI đăng ký ước đạt 10,13 tỷ USD, tăng 18,5%, giải ngân FDI tăng 6,5%, cùng với giải ngân đầu tư công tăng 13%, bán lẻ tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Với các động lực từ phía cầu như vậy, tăng trưởng kinh tế quý 1/2021 đạt 4,48%, cao hơn tốc độ tăng trưởng 3,68% của quý 1/2020. Về triển vọng cả năm, các các định chế tài chính lớn như IMF, WB, ADB...v.v dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021 đạt khoảng 6-7%, khá phù hợp với kết quả phân tích và dự báo của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV (theo kịch bản cơ sở, GDP tăng trưởng 6,5-7%).

Cập nhật tác động của dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam

Về phạm vi đánh giá: Nhóm nghiên cứu tiếp tục lựa chọn 15 ngành kinh tế chịu tác động trực tiếp và cũng là các ngành kinh tế quan trọng (chiếm khoảng 75% GDP năm 2020 của Việt Nam).

Về tiêu chí đánh giá, gồm 3 tiêu chí chính: (i) diễn biến hoạt động (sản lượng) của ngành trong quý 1; (ii) kim ngạch xuất-nhập khẩu (tính đến cả yếu tố đầu vào và đầu ra so với cùng kỳ năm 2020), (iii) diễn biến giá cổ phiếu của nhóm ngành này niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam (phản ánh kỳ vọng của thị trường); có tham khảo số liệu về số doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh trong quý 1/2021 (xem mức độ khó khăn như thế nào).

Theo đó, so với năm 2020, ngoại trừ các ngành du lịch, khách sạn, nhà hàng, vận tải…; mức độ tác động của dịch Covid-19 đến các ngành kinh tế khác đã giảm bớt, thậm chí một số ngành đã có sự phục hồi đáng kể trong quý 1/2021. Tác động cụ thể tới 15 ngành kinh tế được tổng hợp tại Bảng 1.

Khu vực nông-lâm nghiệp-thủy sản

Sản lượng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong quý 1/2021 tăng cao so với cùng kỳ năm trước nhờ các lĩnh vực trồng trọt cây lương thực, cây lâu năm thuận lợi; lĩnh vực chăn nuôi kiểm soát tốt dịch bệnh và đặc biệt các lĩnh vực nông sản, đồ gỗ xuất khẩu có kết quả tích cực. Tính trong quý 1, khu vực nàyđạt mức tăng trưởng 3,19%, chỉ thấp hơn mức tăng của quý 1 các năm 2011 và 2018 trong giai đoạn từ 2011-2021. Kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực như thủy sản, rau quả, cà phê, điều, gạo đều lấy lại đà tăng với mức tăng trưởng chung của quý 1 là 6,8% so với cùng kỳ năm 2020. Trong khi đó, lĩnh vực sản xuất sản phẩm hỗ trợ nông nghiệp cũng tăng trưởng khá mạnh nhờ nhu cầu tiêu thụ tăng. Sản lượng các loại phân bón chủ yếu (Ure, NPK) đạt mức tăng trưởng 6,7% so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong khu vực này còn khó khăn với số lượng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động vẫn còn tăng (+32% so với cùng kỳ năm trước). 

Khu vực công nghiệp và xây dựng

Đối với lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, tuy đã có phục hồi so với quý 1/2020 khi có mức tăng trưởng chung là 6,3% nhưng chưa đồng đều giữa các ngành. Ngành công nghiệp quý 1/2021 tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 5,1% của quý 1/2020 nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng 10,45% của quý 1/2018 và 9% của quý 1/2019. Trong khi lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng trưởng tốt (9,45%) thì ngành khai khoáng lại tăng trưởng âm 8,24% do sản lượng dầu thô khai thác giảm 11% và khí đốt tự nhiên giảm 16,1%.

Về xuất khẩu, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều có sự tăng trưởng tương đối tốt mặc dù trong quý 1/2021 chịu ảnh hưởng tiêu cực từ việc thị trường thế giới thiếu container và sự cố tắc nghẽn tại kênh đào Suez. Đáng lưu ý, các mặt hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng có kim ngạch xuất khẩu đạt 9,1 tỷ USD, tăng 77,2%; sắt thép đạt 1,8 tỷ USD, tăng 65,2%, gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,7 tỷ USD, tăng 41,5% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy sự hồi phục về nhu cầu sản xuất của nền kinh tế thế giới.

Ngành xây dựng ít chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19 và một số lĩnh vực được hưởng lợi từ việc thúc đẩy giải ngân đầu tư công của Chính phủ. Nhờ đó, trong quý 1/2021, ngành này đã đạt mức tăng trưởng 5,17%, cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Khu vực dịch vụ

Đây là các ngành phản ánh rõ nhất tác động tiêu cực từ đại dịch và sẽ cần thêm thời gian hơn để phục hồi. Kết thúc quý 1, tăng trưởng của khu vực này chỉ đạt 3,34% (tương đương mức tăng 3,26% quý 1/2020, nhưng thấp hơn nhiều so với mức 6,5% quý 1/2019).

Cập nhật đánh giá tác động của dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam đến hết quý 1/2021 - Ảnh 1.

Đối với lĩnh vực du lịch vận tải; trong quý 1, dịch bệnh diễn biến phức tạp tại một số nước, cũng như tại một số địa phương trong nước gây cản trở quá trình mở lại các đường bay quốc tế và một phần trong nước. Từ 1/4/2021, Việt Nam mới mở cửa trở lại 4 đường bay quốc tế (đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Úc). Tuy nhiên, lượng khách du lịch quốc tế vẫn giảm mạnh 98,1% so với quý 1/2020 trong khi số lượng vận tải hành khách nội địa cũng giảm 11,8%. Doanh thu ngành du lịch trong quý 1 do đó vẫn giảm 60% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán, chỉ số giá nhóm cổ phiếu du lịch vẫn tăng 7,1% so với đầu năm, do hai nguyên nhân chính: (i) Trong quý 1/2021, một số nhóm cổ phiếu trong đó có du lịch đã thu hút được dòng tiền của các nhà đầu tư trong khi giá các nhóm cổ phiếu khác đã tăng rất cao, (ii) Thị trường chứng khoán vẫn duy trì đà tăng, đã có biểu hiện đầu cơ nên diễn biến giá cổ phiếu của một số nhóm ngành chỉ phản ánh phần nào tác động của dịch Covid-19.

Trong khi đó, các ngành bán lẻ, kinh doanh bất động sản (BĐS) cho thấy xu hướng hồi phục dù chưa thực sự mạnh mẽ với mức tăng lần lượt là 5,1% và 3,6%. Lĩnh vực BĐS có mức tăng trưởng thấp là do ảnh hưởng mạnh của Covid-19 vẫn còn tác động khá rõ tới các phân khúc như mặt bằng bán lẻ, BĐS du lịch nghỉ dưỡng…v.v.

Trái lại, lĩnh vực tài chính-ngân hàng-bảo hiểm duy trì được mức tăng trưởng khá (7,35%). Kết quả này cơ bản là do chính sách điều hành chủ động và linh hoạt của Chính phủ và NHNN, cho phép cơ cấu lại nợ song vẫn giữ nguyên nhóm nợ và như vậy bên vay vẫn tiếp cận được vốn, tăng trưởng tín dụng đạt 12,13% năm 2020 và 2,93% quý 1/2021 và các hoạt động dịch vụ (như ngân hàng số, thanh toán không tiền mặt được thúc đẩy). Trong khi đó, thị trường chứng khoán có diễn biến giao dịch sôi động, cho vay ký quỹ (margin) tăng mạnh và kết quả hoạt động ngành dịch vụ chứng khoán khả quan.

Trong khi đó, giá cổ phiếu của một số ngành như y tế, giáo dục vẫn giảm, thể hiện triển vọng của ngành còn khó khăn khi diễn biến dịch bệnh còn phức tạp, tiến trình sản xuất, phân phối và tiêm vaccine còn bất định, hoạt động giáo dục – đào tạo còn gián đoạn và phải mất nhiều thời gian mới có thể phục hồi.

Ngoài ra, do lĩnh vực dịch vụ chịu tác động mạnh nhất bởi dịch Covid-19, nên số lượng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ vẫn tiếp tục tăng (29,8% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn so với mức tăng chung là 28,2%); trong đó tăng mạnh nhất là lĩnh vực y tế, giáo dục – đào tạo, lưu trú – ăn uống và kinh doanh BĐS.

Một số gợi ý từ kết quả đánh giá

Từ kết quả đánh giá, phân tích nêu trên, Nhóm nghiên cứu gợi ý bốn giải pháp ngắn hạn để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và đạt mục tiêu tăng trưởng đã đề ra.

Một là, nhiệm vụ ưu tiên số 1, quan trọng hàng đầu hiện nay vẫn phải là tiếp tục phòng chống và kiểm soát dịch Covid-19 hiệu quả; bởi vì làm tốt điều này cũng chính là góp phần quan trọng ổn định kinh tế-xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Hai là, Chính phủ cần khẩn trương rà soát, đánh giá kết quả triển khai các gói hỗ trợ năm 2020; rút ra mặt được và chưa được; làm cơ sở, tiền đề cho việc thiết kế các gói hỗ trợ tiếp theo cho đến hết năm 2021. Phạm vi hỗ trợ nên tập trung vào 2 lĩnh vực chính là du lịch (gồm cả lưu trú – ăn uống) và vận tải, kho bãi. Theo đó, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV kiến nghị:

- Gói tài khóa: khoảng 45 nghìn tỷ đồng, tương đương 0,71% GDP, gồm: (i) Xem xét cho phép miễn phí Công đoàn tại doanh nghiệp năm 2021; (ii) Cho phép chuyển tiếp lỗ năm 2020 sang năm 2021-2022 (qua đó, giảm nghĩa vụ thuế tương ứng) như một số quốc gia đã làm; (iii) Chính thức điều chỉnh giảm thuế TNDN từ 20% xuống 15-17% đối với DNNVV (từ năm 2021) như Luật hỗ trợ DNNVV cho phép; (iv) tăng cho vay qua Quỹ phát triển DNNVV và khởi động hoạt động thực chất của các quỹ bảo lãnh vay vốn DNNVV (thông qua Quỹ phát triển DNNVV này hoặc các tổ chức tín dụng được chỉ định); (v) tiếp tục giãn, hoãn thuế và tiền sử dụng đất cho doanh nghiệp nhưng cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện mạnh khâu hướng dẫn và đẩy nhanh tiến độ thực hiện.

- Gói tiền tệ - tín dụng: trị giá khoảng 8 nghìn tỷ đồng (0,12% GDP) bao gồm: (i) Khẩn trương hoàn thiện phương án, quy trình cho vay ưu đãi đối với lĩnh vực hàng không như đã được Quốc Hội và Chính phủ phê duyệt; (ii) Tạo điều kiện để các TCTD đẩy mạnh cho vay DNNVV (phối hợp chặt chẽ hơn với Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV như nêu trên); (iii) Thúc đẩy gói cho vay nhà ở xã hội (gói 3 nghìn tỷ đồng…) và Bộ xây dựng chủ trì sớm đề xuất cơ chế động lực để doanh nghiệp đầu tư phát triển nhà ở xã hội; (iv) Khuyến khích cho vay đầu tư trang thiết bị y tế, hạ tầng y tế, nghiên cứu và sản xuất vaccine, hạ tầng viễn thông, xử lý rác thải và các lĩnh vực ưu tiên khác.

- Gói an sinh xã hội: cho phép gia hạn thực hiện các gói hỗ trợ năm 2020 đến hết năm 2021, với giá trị còn lại là 36.900 tỷ đồng, khoảng 0,6% GDP. Việc chuyển tiền cần thực hiện qua tổ chức tín dụng và tổ chức cung ứng dịch vụ Mobile money (nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, tiết giảm chi phí và thúc đẩy thanh toán không tiền mặt). Đồng thời, cần hỗ trợ chi phí đào tạo nghề cho lao động chuyển nghề do mất hay thay đổi việc làm, nâng cao tay nghề để có thể tận dụng cơ hội dịch chuyển chuỗi sản xuất…v.v. Quy mô chương trình dự kiến khoảng 3 nghìn tỷ đồng/năm (0,05% GDP), trong đó 50% từ ngân sách TW và từ ngân sách địa phương (hiện nay, mỗi năm ngân sách chi khoảng 1.710 tỷ đồng), 50% từ đóng góp của các DN hưởng lợi từ lao động được đào tạo này.

Ba là, tiếp tục phối hợp với các tổ chức quốc tế (WHO, Liên minh COVAX...) và các tổ chức sản xuất vaccine để sớm có đủ lượng vaccine cho Việt Nam. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền về sự cần thiết của việc tiêm vaccine ngừa Covid-19 để người dân yên tâm thực hiện; thúc đẩy hợp tác nghiên cứu, sản xuất vaccine tại Việt Nam.

Bốn là, nhất quán thực hiện các mục tiêu, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ. Theo đó, cần có rà soát, cập nhật và đôn đốc tiến độ thực hiện của các bộ, ngành, địa phương; và có điều chỉnh kịp thời.

(TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV)


H. Kim (Ghi theo Báo cáo của Nhóm tác giả)

Nhịp sống kinh tế

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên