Chính sách tiền tệ thận trọng - nền tảng duy trì sự ổn định
Tăng trưởng GDP so với cùng kỳ sẽ đạt đỉnh trong quý II/2021 và sau đó sẽ bình thường hóa từ nửa cuối 2021, đạt mức 6-6,5% trong cả năm 2021 và 7% năm 2022. Hoạt động kinh tế sôi động hơn sẽ khiến cầu tín dụng tăng mạnh hơn, lạm phát cũng tăng cao hơn trong nửa cuối 2021 nhưng không đáng ngại vì chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn rất thận trọng và mang tính chất ổn định cao.
Đây là nhận định về kinh tế vĩ mô của các chuyên gia thuộc Trung tâm phân tích đầu tư của Công ty chứng khoán SSI.
Cơ hội được tạo ra từ sự ổn định
Theo các chuyên gia kinh tế, trên quy mô toàn cầu, việc mở rộng cung tiền mạnh mẽ đã kéo dài hơn một năm và triển vọng hồi phục kinh tế theo mô hình chữ V sau khi từng bước kiểm soát được đại dịch COVID-19 đã khiến gia tăng mối lo ngại lạm phát cũng như việc các ngân hàng trung ương có thể rút lại các chính sách hỗ trợ sớm hơn dự kiến.
Hiện tại, Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và hầu hết các ngân hàng trung ương khác đều giữ quan điểm duy trì nới lỏng tiền tệ. Tuy nhiên, triển vọng phục hồi kinh tế tích cực khi tiến trình tiêm vaccine đang được đẩy mạnh cùng với áp lực về lạm phát đã đẩy lo ngại về bình thường hóa chính sách tiền tệ sớm hơn dự kiến của các ngân hàng trung ương.
Áp lực lạm phát đã là hiện thực tại các nước có nền kinh tế không đủ mạnh và buộc các nước này phải nâng lãi suất điều hành trong quý I/2021 như Nga, Brasil, Thổ Nhĩ Kỳ, các nước châu Phi... Cung tiền tại cuối quý I/2021 của các nước lớn vẫn tăng so với cuối năm nhưng tốc độ có phần chậm lại.
Còn tại Việt Nam, chính sách tiền tệ vẫn được điều hành khá thận trọng, các yếu tố về lạm phát, thanh khoản, lợi tức trái phiếu vẫn đang khá thuận lợi để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện mục tiêu ổn định lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế.
Việc lãi suất tiền gửi duy trì ở mức thấp sẽ giúp các ngân hàng thương mại sẽ có cơ sở để giảm thêm lãi suất cho vay cho khách hàng bằng cách thu hẹp biên lãi ròng (NIM).
Các chuyên gia phân tích kỳ vọng tăng trưởng GDP so với cùng kỳ sẽ đạt đỉnh trong quý II/2021 và sau đó sẽ bình thường hóa từ nửa cuối 2021, đạt mức 6-6,5% trong cả năm 2021 và 7% năm 2022.
Bất chấp đợt dịch thứ ba, tăng trưởng GDP thực tế trong quý I/2021 là 4,48% , thấp hơn kỳ vọng là 4,5-5% nhưng phù hợp với ước tính trước đó của Chính phủ với giả định kiểm soát tốt dịch bệnh.
Giải ngân vốn FDI đang phục hồi tốt, hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu tăng trưởng ấn tượng (lần lượt 22% và 26,3%). Các chuyên gia kỳ vọng tăng trưởng GDP đạt mức 6-6,5% trong cả năm 2021 và 7% năm 2022.
Các chuyên gia dự báo, hoạt động kinh tế sôi động hơn sẽ khiến cầu tín dụng tăng mạnh hơn, lạm phát cũng có thể tăng cao hơn trong nửa cuối 2021 khiến lãi suất tiền gửi gia tăng. Mặt bằng lãi suất tiền gửi vẫn tiếp tục ổn định trong hầu hết quý 2/2021 nhưng có thể nhích tăng từ 0,3%-0,5% trong nửa cuối năm 2021. Lãi suất cho vay đối một số lĩnh vực ưu tiên có thể điều chỉnh giảm nhẹ ở một số ngân hàng nhưng về cơ bản mặt bằng lãi suất chung sẽ vẫn ổn định.
Lạm phát chưa đáng ngại, các ngân hàng tìm cơ hội giảm lãi vay
Ngân hàng trung ương các nước trong khu vực ASEAN (Thái Lan, Singapore, Indonesia, Malaysia...) đều tăng tốc độ mở rộng cung tiền rất mạnh kể từ tháng 3/2020 đến nay nhưng NHNN Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng cung tiền M2 ổn định ở quanh mức 13%-14% so với cùng kỳ năm trước, phù hợp với mức tăng trưởng tín dụng.
Để đối phó với dịch bệnh, NHNN đã có 3 lần cắt giảm lãi suất điều hành và trần lãi suất cho vay, tiền gửi ngắn hạn trong năm 2020 nhưng không bơm tiền thêm trên thị trường mở. Lượng tiền bơm ra thị trường trong năm 2020 chủ yếu thông qua giao dịch mua vào ngoại tệ để gia tăng dự trữ ngoại hối.
Sang năm 2021, giao dịch ngoại tệ với NHNN chuyển sang mua kỳ hạn và có thể hủy ngang. Tính từ đầu năm đến nay, lượng tiền bơm ròng qua thị trường mở và kênh ngoại tệ đều bằng 0.
Có thể thấy việc chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn rất thận trọng và mang tính chất ổn định cao.
Về lạm phát, CPI tháng 3 giảm (-0,27%) so với tháng trước và có nghĩa là CPI bình quân chỉ tăng 0,29% so với cùng kỳ năm ngoái (mức thấp nhất trong 20 năm theo tính toán của Tổng cục Thống kê).
Lạm phát cơ bản cũng giảm -0,12% so với tháng trước và lạm phát tổng thể chỉ tăng 0,67% theo năm.
Căn cứ vào những diễn biến đó, các chuyên gia ước tính CPI cuối năm 2021 có thể tăng 4,07% so với cuối năm 2020 nhưng mức CPI trung bình cả năm 2021 sẽ chỉ tăng 2,89% so với năm trước, là mức chưa đáng lo ngại.
Lãi suất tiền gửi đã giảm tổng cộng 2-2,5% trong năm 2020 trong đó mạnh nhất là trong quý 3/2020. Dù lãi suất tiền gửi giảm sâu xuống mức thấp chưa từng có nhưng huy động của các NHTM vẫn rất khả quan, cùng với đó là sự sụt giảm của cầu tín dụng khiến cho chênh lệch tiền gửi- tín dụng từ đầu năm 2020 đến này giãn khá rộng.
Ở đầu ra vốn ngân hàng, trong năm 2020, lãi suất cho vay đã giảm từ 1-1,5%, thấp hơn mức giảm của lãi suất tiền gửi (2-2,5%). Nhờ vậy, biên lãi ròng (NIM) của hầu hết các NHTM đã tăng trong nửa cuối năm 2020. Bởi vậy, nếu lãi suất tiền gửi duy trì ở mức thấp, các NHTM sẽ có cơ sở để giảm thêm lãi suất cho vay cho khách hàng bằng cách thu hẹp NIM về mức thông thường là khoảng 3,5%.
Về tăng trưởng tín dụng, gần đây, NHNN cũng đã giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 2021, trong đó các ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước là từ 6,5-7,5% (ngoại trừ Vietcombank là 10,5%), NHTM cổ phần là từ 8-12%. Hạn mức tăng trưởng tín dụng 2021 bình quân của các NHTM là 9%, nghĩa là thấp hơn mức bình quân 10% trong đợt giao hạn mức đợt đầu của năm 2020.
Mức giao hiện tại là phù hợp với mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 2021 là 12% , nghĩa là "khiêm tốn"hơn mục tiêu tăng trưởng tín dụng đặt ra đầu năm 2020 là 14%.
Dù vậy, theo NHNN, diễn biến thực tế lại khá sôi động ngay từ đầu năm. Tăng trưởng tín dụng đến 15/3/2021 đạt mức 2,04% là rất khả quan nếu so với cùng kỳ năm ngoái (tăng 1,3%).
Khảo sát trong quý I/2021, ngoài Vietcombank áp dụng giảm lãi suất cho toàn bộ dư nợ bị ảnh hưởng bởi COVID-19 trong 3 tháng, còn BIDV triển khai gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ kéo dài đến 30/9/2021, một số ít NHTM cổ phần cũng điều chỉnh giảm lãi suất cho vay từ 0,1-0,4% nhưng chỉ với thời gian ưu đãi trong 6-12 tháng đầu. Lãi suất cho vay ở hầu hết các NHTM vẫn ổn định so với thời điểm cuối năm 2020.
Bên cạnh sự dịch chuyển của dòng tiền sang các kênh đầu tư khác ngoài tiền gửi, các NHTM có thể đã chủ động giảm huy động để thu hẹp chênh lệch với dư nợ cho vay để đảm bảo mức sinh lời của ngân hàng.
Trao đổi với báo chí tại Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 2, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết: mức lãi suất cho vay bình quân hiện nay ở Việt Nam thấp hơn mức bình quân của ASEAN-4. Quan điểm của NHNN là trước mắt sẽ tiếp tục duy trì sự ổn định lãi suất huy động và cho vay. Nếu các chỉ số kinh tế diễn biến thuận lợi, hợp lý, trong năm 2021, NHNN sẽ đề nghị các tổ chức tín dụng cố gắng tiết giảm các chi phí, để tiếp tục hạ lãi suất cho vay ngay khi có điều kiện để hỗ trợ doanh nghiệp.
Báo Chính phủ