Chuyên gia quốc tế: Việt Nam đang đứng trước những cơ hội độc đáo trong quá trình phát triển kinh tế nhanh chóng!
Hiệp định EVFTA được kỳ vọng sẽ thúc đẩy thêm cho quá trình đi lên của Việt Nam, theo quan điểm của TS. John Walsh, Chủ nhiệm bộ môn Kinh doanh Quốc tế thuộc ĐH Rmit Việt Nam.
- 21-05-2020Viện nghiên cứu Brookings: Việt Nam là một điểm sáng kinh tế trên thế giới nhờ Covid-19
- 21-05-2020Hiệp định EVFTA: Cuộc đua chen chân vào chuỗi cung ứng toàn cầu cần chú ý những gì?
- 20-05-2020Thủ tướng: Nghiên cứu xây dựng tàu điện ngầm ở Hải Phòng
Theo ông John Walsh, với những cam kết mạnh mẽ từ cả hai bên, Hiệp định EVFTA hứa hẹn mang lại những cơ hội to lớn cho doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Hiệp định EVFTA cũng có thể giúp thu hút thêm các khoản đầu tư từ nước ngoài. Đã có một số dự đoán cho thấy đầu tư vào Việt Nam sẽ gia tăng đáng kể ngay khi nguy cơ từ đại dịch giảm xuống.
Một điểm khác được ông John lưu ý là vị thế của Việt Nam sau khi ký EVFTA. Tham gia hiệp định này không chỉ nâng cao vị thế kinh tế cho Việt Nam mà cả vị thế chính trị của đất nước. Các quốc gia khác sẽ tìm cách "cạnh tranh" với Việt Nam bằng cách ký kết các thỏa thuận tương tự cho nước họ trên cơ sở cân nhắc các điều khoản mà Việt Nam đã ký.
Tuy vậy, các hiệp định thương mại tự do (FTA) về bản chất thường không đối xứng. Dù các thỏa thuận này nhìn chung hứa hẹn rằng các bên sẽ cùng có lợi, nhưng điều đó không có nghĩa lợi ích sẽ luôn được chia đều. Đồng thời, sẽ có nhiều thay đổi xảy ra và không phải tất cả các bên liên quan đều có thể chuyển đổi một cách suôn sẻ.
Với EVFTA, những người không thể chuyển đổi công việc (vì nhiều lý do như tuổi tác, điều kiện làm việc hay khả năng học kỹ năng mới) sẽ cần hỗ trợ. Vai trò của chính phủ là rất quan trọng thông qua đào tạo lại kỹ năng, tái định cư, cũng như tạo ra cơ hội mới cho những ai có khả năng tận dụng chúng.
Sẽ có một số doanh nghiệp cũng phải ngừng hoạt động vì bản thân họ thiếu khả năng thích ứng với những xáo trộn do thay đổi gây ra.
Theo TS. John, các lĩnh vực nòng cốt hiện nay của nền kinh tế (như dệt may và nông nghiệp) sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong nhiều năm nữa, nhưng sẽ có dư địa để phát triển thêm các hoạt động đem lại giá trị gia tăng cao hơn.
Chẳng hạn, việc kết hợp giữa đầu tư tư nhân và hỗ trợ của chính phủ đã giúp các công ty hạt điều Việt Nam cho ra mắt những thương hiệu có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngành sản xuất cà phê cũng đã nhận được những khoản tiền tương tự và ngành này có thể thành công hơn nữa nếu trọng tâm xuất khẩu chuyển dịch từ cà phê Robusta sang Arabica - giống cà phê có giá trị gia tăng cao hơn.
Các nhà sản xuất càng nâng cấp sản phẩm (từ sản phẩm thô lên sản phẩm có thương hiệu) thì thu nhập của họ sẽ càng ổn định và sản phẩm của họ sẽ càng phổ biến hơn. Một trong các giải pháp có thể là thúc đẩy hơn nữa quá trình mở cửa thị trường trong nước cho các nhà bán lẻ quốc tế - những người có chuyên môn trong việc gắn kết nông dân địa phương vào các chuỗi giá trị quốc tế.
Doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu sang châu Âu nên bắt tay với một đối tác châu Âu có chuyên môn về thị trường phân phối địa phương.
Với những doanh nghiệp muốn cạnh tranh ở thị trường nội địa, một số sẽ tiếp tục cố gắng cạnh tranh hoàn toàn bằng chi phí thấp và sẽ có người vẫn thành công bằng cách này. Các doanh nghiệp khác thì có thể tận dụng hiệu ứng lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam cũng như tiềm năng chuyển giao công nghệ.
Ông John cho rằng Việt Nam đang đứng trước những cơ hội độc đáo trong quá trình phát triển kinh tế nhanh chóng mà giờ đây còn được thúc đẩy thêm bởi EVFTA.
"Chúng ta đã thấy Nhật Bản đi từ một nước nghèo lên thành một cường quốc giàu có, tiếp đến là Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, và sau đó là làn sóng phát triển ở Malaysia, Thái Lan và Trung Quốc. Việt Nam đang phát triển muộn hơn tất cả những quốc gia này. Điều này bao hàm nhiều ý nghĩa và về mặt tích cực, đất nước và con người Việt Nam có thể hưởng lợi từ việc quan sát thành công và thất bại của các quốc gia đi trước", ông nói.