Cổ phiếu ngân hàng vào quãng nghỉ cần thiết, cơ hội cho những cái tên chưa “nóng máy”?
Định giá “mềm” cùng triển vọng lạc quan về tăng trưởng lợi nhuận và khả năng kiểm soát nợ xấu được kỳ vọng là động lực tiếp tục kéo dài con sóng cổ phiếu ngân hàng.
Tâm điểm của thị trường chứng khoán thời gian qua đổ dồn về các cổ phiếu ngân hàng, nhóm chiếm đến 40% vốn hóa toàn sàn. Không quá khi cho rằng cổ phiếu "vua" là "hơi thở" của thị trường thời gian qua bởi đà tăng chủ yếu được dẫn dắt bởi nhóm này. Ngược lại, khi nhóm ngân hàng bước vào quãng nghỉ, thị trường cũng điều chỉnh.
Trong giai đoạn đi lên bền bỉ gần 3 tháng qua, các nhịp điều chỉnh diễn ra khá ngắn cùng biên độ không quá lớn. Dòng tiền luân chuyển giữa trong nhóm ngân hàng giúp thị trường nhanh chóng trở lại đà tăng sau các quãng nghỉ. Các cổ phiếu ngân hàng thay phiên dẫn sóng, khi nhóm tăng nóng chịu áp lực chốt lời, những cái tên tăng ít, thậm chí chưa tăng không bỏ qua cơ hội hút tiền.
Nhờ đó, nhiều cổ phiếu "vua" đã tăng 2 chữ số từ đầu năm 2024. Dù vậy, vẫn còn không ít cái tên trong nhóm ngân hàng chưa "nóng máy" như VPB, EIB, SSB. Với việc dòng tiền vào thị trường vẫn dồi dào và luân chuyển nhịp nhàng, các cổ phiếu trên được kỳ vọng sẽ hút tiền qua đó vươn lên dẫn dắt nhóm ngân hàng cũng như thị trường chung sớm trở lại đà tăng.
Nhìn vào nhóm chưa "chạy", VPB có lẽ là cái tên sáng giá nhất có thể vươn lên dẫn sóng với lợi nhuận quý 4/2023 tăng trưởng 96% so với cùng kỳ, vào loại cao nhất ngành. Trước đó, những cái tên đã vượt đỉnh như VCB, BID, ACB, HDB, MBB hay tiệm cận đỉnh như CTG, LPB cũng đều có tăng trưởng lợi nhuận khả quan so với mặt bằng chung của ngành.
Theo báo cáo phân tích về VPB của MBS mới công bố, công ty này dự báo, lợi nhuận sau thuế VPBank năm 2024 có khả năng đạt 16.422 tỷ đồng, tăng 90,1% so với năm 2023.
VPB cũng là cổ phiếu ngân hàng có vốn hóa lớn nhất trong nhóm tăng dưới 10% từ đầu năm. Bên cạnh đó, cổ phiếu này cũng là một trong những cái tên giao dịch sôi động nhất nhóm ngân hàng. Vốn hóa khủng cùng khả năng tạo hiệu ứng lan toả là lợi thế của VPB trong việc thu hút dòng tiền thông minh quy mô lớn.
Bên cạnh đó, việc nguồn vốn lớn thực sự đổ vào từ cuối năm trước sau khi hoàn thành chốt deal với SMBC, đi kèm với đó là bổ sung kinh nghiệm quốc tế và khả năng phục vụ nhóm khách hàng siêu lớn được kỳ vọng sẽ thúc đẩy kết quả kinh doanh của VPBank thời gian tới.
Ngoài ra, "gà đẻ trứng vàng" FE Credit cũng đã hoàn thành tái cơ cấu và mang về lợi nhuận trước thuế 208 tỷ đồng trong quý 4/2023. Đây là quý thứ hai liên tiếp công ty tài chính này ghi nhận lợi nhuận trước thuế dương sau thời gian dài liên tục thua lỗ. Chuyển biến tích cực này sẽ hỗ trợ lợi nhuận của VPBank qua đó tạo tiền đề để ngân hàng triển khai chính sách cổ tức tiền mặt 10% trong 5 năm liên tiếp.
Nhìn chung, tiềm năng là không thể phủ nhận nhưng vẫn cần đặt trong bối cảnh chung toàn ngành. Vì thế, điều quan trọng nhất vẫn là dòng tiền đang nhìn nhận triển vọng nhóm ngân hàng như thế nào?
Định giá hợp lý
Mặc dù trải qua nhịp tăng kéo dài nhưng định giá nhóm cổ phiếu ngân hàng vẫn đang "khá mềm". P/B (giá cổ phiếu trên giá trị sổ sách) của nhóm cổ phiếu này hiện vào khoảng 1,6 lần, chỉ nhỉnh hơn đôi chút so với mức trung bình 5 năm, chủ yếu đến từ bộ đôi VCB và BID. Trong khi đó, hầu hết các cổ phiếu "vua" đều đang có P/B dưới 1,5 lần.
Định giá thấp là "bộ đệm" giúp cổ phiếu ngân hàng giảm bớt mức độ khốc liệt trong các nhịp điều chỉnh. Đồng thời, đây cũng là một trong những yếu tố góp phần thu hút thêm dòng tiền mới nhập cuộc. Theo Chứng khoán Vietcombank (VCBS), tốc độ tăng trưởng cao của lợi nhuận và vốn chủ sở hữu tại một số ngân hàng sẽ giúp hệ số P/B dự phòng duy trì ở mức hấp dẫn.
Trong khi đó, SSI Research đánh giá nếu giả định tỷ lệ LGD (tổn thất ước tính) đối với các khoản nợ có vấn đề là 50% và sau khi sử dung nguồn dự phòng đã trích lập, mức độ ảnh hưởng đối với vốn chủ sở hữu sẽ ở mức 11%. Do đó, bộ phận phân tích này cho rằng mức định giá hiện tại phần lớn đã phản ánh rủi ro tín dụng đến từ nợ quá hạn và khoản vay tái cơ cấu theo Thông tư 02.
Theo Bộ phận phân tích, định giá hầu như không thay đổi trong quá trình xử lý nợ xấu nhưng sẽ được định giá lại trong vòng 6-12 tháng trước khi hoàn tất xử lý nợ xấu. Trong quá trình này, những ngân hàng có khả năng tăng vốn sớm hơn sẽ có điều kiện tốt hơn để đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, giành thêm thị phần và đạt kết quả khả quan hơn so với các ngân hàng khác.
Tăng trưởng lợi nhuận khả quan
Với bối cảnh kinh tế vĩ mô dự kiến cải thiện hơn trong năm 2024, SSI Research kỳ vọng tăng trưởng tín dụng sẽ phục hồi lên mức 14%. Điều này được hỗ trợ một phần bởi lãi suất cho vay giảm. Dư địa tăng trưởng có thể sẽ đến từ khối doanh nghiệp như: (i) ngành xây dựng cơ sở hạ tầng; (ii) doanh nghiệp sản xuất và FDI; và (iii) các ngành nghề được ưu tiên (như nông nghiệp, xuất khẩu, công nghệ cao, SME và công nghiệp bổ trợ).
Theo ước tính của SSI Research, tăng trưởng lợi nhuận trước thuế năm 2024 của các ngân hàng thuộc phạm vi nghiên cứu dự kiến đạt 15,4%. Đây là mức tăng trưởng tốt hơn so với mức 4,6% trong năm 2023. NIM được dự báo sẽ phục hồi 9 điểm cơ bản lên mức 3,75% cho các ngân hàng thuộc phạm vi nghiên cứu.
Lãi suất huy động bình quân trong năm 2024 dự kiến sẽ không có chênh lệch quá lớn so với mức hiện tại. Theo đó, chi phí vốn dự kiến thấp hơn (giảm 113 điểm cơ bản svck), CASA cải thiện và các khoản vay mới có thời hạn dài hơn sẽ giúp giảm bớt áp lực về NIM cho các tổ chức tín dụng trong năm 2024.
Thận trọng hơn, VCBS nhận định lợi nhuận ngành ngân hàng 2024 tiếp tục có sự phân hóa mạnh trong 2024 với mức tăng trưởng khoảng 10%. VCBS cũng lưu ý trong trường hợp Thông tư 02 về cơ cấu nợ không được gia hạn, nhóm ngân hàng có tỷ trọng tín dụng doanh nghiệp cao và tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp có thể phải đối mặt rủi ro và áp lực trích lập tăng cao trong năm 2024-25. Nhóm ngân hàng chất lượng tài sản tốt sẽ ghi nhận nợ xấu và nợ tái cơ cấu kiểm soát ở mức vừa phải.