Có thể hoãn thoái vốn Nhà nước đến sau 2020, GAS còn hấp dẫn?
Theo đề án được phê duyệt, PVN sẽ giảm tỷ lệ sở hữu tại GAS từ 95,76% xuống 65% trong giai đoạn 2018-2019, tuy nhiên thông tin mới nhất từ PVN thì có thể hoãn đến sau 2020.
Có thể hoãn thoái vốn GAS đến sau 2020
Theo văn bản số 1182/TTg-ĐMDN phê duyệt danh mục doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn giai đoạn 2017-2020, PVN sẽ giảm tỷ lệ nắm giữ tại Tổng công ty Khí Việt Nam – CTCP (HOSE: GAS) từ 95.76% xuống 65% vốn điều lệ trong giai đoạn 2018-2019.
GAS là doanh nghiệp đầu ngành, quy mô lớn thuộc tốp đầu thị trường niêm yết hiện nay cùng hoạt động kinh doanh tốt. Trong giai đoạn giá dầu đi xuống giai đoạn 2015-2017, dù lợi nhuận sụt giảm nhưng GAS luôn duy trì mức cổ tức tiền mặt khoảng 40% vốn điều lệ, tương đương số tiền chi ra trên 7.500 tỷ đồng.
Mặt khác, tỷ lệ thoái vốn Nhà nước trong đợt này là 30% vốn điều lệ GAS, ứng 587 triệu cp. Xét tại mức giá 100.000 đồng/cp hiện nay, giá trị thương vụ có thể đạt gần 58.700 tỷ đồng. Tuy sau thoái vốn PVN vẫn sở hữu GAS ở tỷ lệ chi phối nhưng con số 30% cũng rất có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư chiến lược.
Do đó, việc PVN nhả “con gà đẻ trứng vàng” này ra cũng kỳ vọng thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn nước ngoài tương tự như các thương vụ thoái vốn tại Vinamilk, Sabeco…
Ban lãnh đạo GAS kỳ vọng kể năm 2018, tổng công ty sẽ tìm kiếm cơ hội được hợp tác sâu rộng hơn với các cổ đông, đặc biệt nhà đầu tư chiến lược khi mà PVN thoái vốn. Đây là giải pháp chiến lược dài hạn, không chỉ đem về nguồn vốn cần thiết mà qua đó GAS còn có thể tiếp cận các công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý tiên tiến từ các cổ đông chiến lược, cũng như trao đổi học hỏi kinh nghiệm từ các đối tác hàng đầu trên thế giới. GAS cũng có chiến lược đầu tư ra nước ngoài trong tương lai, với việc ký kết với Tập đoàn Alaska Gasline Development Corporation (AGDC), GAS sẽ xem xét đánh giá các cơ hội tham gia đầu tư phát triển tại các mỏ khí tại Bang Alaska – Mỹ.
Tuy nhiên, PVN mới đây đã có công văn gửi Bộ Công Thương về việc bổ sung, hoàn thiện Đề án tái cơ cấu PVN giai đoạn 2017 – 2025, với việc thoái vốn tại GAS, tập đoàn cho biết sẽ chủ động cân nhắc lựa chọn thời điểm thoái vốn để đảm bảo hiệu quả tối ưu nhất và có thể sẽ kéo dài sau năm 2020. Trong khi đó, từ nay đến 2020, PVN sẽ tập trung thoái vốn tại các đơn vị thành viên gồm Tổng CTCP Khoan và Dịch vụ khoan dầu khí (PVD), Tổng CTCP Dịch vụ Tổng hợp dầu khí – Petrosetco (PET), Tổng CTCP Tư vấn thiết kế dầu khí (PVE), Tổng CTCP Dung dịch khoan và hóa phẩm dầu khí (PV-DMC).
Lợi nhuận cải thiện đáng kể nhờ giá dầu tăng
Theo BCTC hợp nhất 6 tháng đầu năm, GAS đạt 38.187,7 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước. Giá vốn tăng nhẹ hơn, biên lãi gộp cải thiện từ 20% lên 22,8% giúp lãi gộp đạt 8.776 tỷ đồng tăng 34%. Nhờ vậy, lãi ròng tổng công ty ghi nhận 5.816,7 tỷ đồng, tăng 41,5%. So với kế hoạch năm, GAS đã thực hiện được 90% kế hoạch lợi nhuận năm do kế hoạch kinh doanh 2018 được đề ra theo phương án giá dầu Brent 50 USD/thùng với lãi sau thuế 6.429 tỷ đồng.
GAS cho biết giá dầu bình quân 6 tháng đầu năm 2018 đạt 70,57 USD/thùng, tăng 18,8 USD/thùng (36%) so với cùng kỳ năm trước đã đẩy giá bán các sản phẩm tăng tương ứng, nhờ đó lợi nhuận cũng tăng mạnh.
Vào cuối tháng 6, các chuyên gia quốc tế dự báo giá dầu có thể lên mức 90 USD/thùng do ảnh hưởng từ nguồn cung dầu thô liên quan đến các lệnh trừng phạt của Mỹ dành cho nước xuất khẩu dầu lớn là Iran. Tuy nhiên, hiện nay căng thẳng thương mại Mỹ - Trung đang leo thang; vào tháng 6 OPEC cũng các nước phi thành viên nhất trí tăng sản lượng dầu để bù đắp thiếu hụt nguồn cung từ Libya, Venezuela và Iran; Mỹ cũng tăng sản lượng và khủng hoảng Thỗ Nhĩ Kỳ… Tất cả các yếu tố khiến giá dầu thế giới trở nên càng khó đoán hơn trong thời gian tới.
Dẫu vậy, tính đến hiện nay (24/8), giá dầu brent đạt 75 USD/thùng, tăng 50% so với năm trước; giá dầu WTI đạt 68 USD/thùng, cũng tăng 48%.
Diễn biến giá dầu brent 1 năm qua
Kỳ vọng từ mảng kinh doanh mới
Trong cơ cấu doanh thu của GAS có hai nguồn thu chủ đạo từ bán khí thô và bán khí gas hóa lỏng LPG. Các năm gần đây, GAS đang giảm dần tỷ trọng doanh thu bán khí thô và nâng dần tỷ trọng bán LPG. Cụ thể, tỷ trọng bán khí thô trên tổng doanh thu của GAS đã giảm từ 60% năm 2016 về 51% trong nửa đầu năm 2018, ngược lại, tỷ trọng bán LPG tăng dần từ 30,4% lên 34%.
Bên lãi gộp mảng bán khí thô vẫn duy trì ở mức trên 20% và đóng góp chủ yếu vào lãi gộp tổng công ty trong khi biên lãi gộp mảng bán LPG đang dần được cải thiện.
Trong bối cảnh thị trường LPG ngày càng cạnh tranh khốc liệt, từ năm 2016, GAS bắt đầu triển khai chiến lược bán lẻ LPG. Qua 2 năm, tính đến cuối 2017, GAS và các đơn vị thành viên đã tạo lập được chuỗi gần 100 cửa hàng cung cấp LPG (bình) trực tiếp cho hộ gia đình, hệ thống các khách sạn, nhà hàng, resort… và hệ thống phân phối với khoảng trên 2.000 tổng đại lý/đại lý bán lẻ. Về bán buôn LPG, GAS có gần 50 khách hàng trong nước, trên 10 khách hàng nước ngoài. GAS cũng đang nghiên cứu phát triển hệ thống phân phối bán lẻ LPG tại các nước lân cận như Lào và Campuchia.
Trong năm 2017, tổng sản lượng kinh doanh LPG của GAS và các đơn vị thành viên đạt khoảng 1,58 triệu tấn LPG, trong đó sản lượng LPG cung cấp ra thị trường nội địa đạt mức cao nhất từ trước đến nay, trên 1,2 triệu tấn, tăng 13% so với năm 2016. GAS đã nắm khoảng 70% thị phần LPG cả nước.
Ngoài ra, mảng kinh doanh CNG (khí nén thiên nhiên có thể làm nhiên liệu động cơ thay thế xăng, dầu) và condensate (khí ngưng tụ) cũng liên tục tăng trưởng mạnh trong các năm gần đây. Nửa đầu năm 2018, doanh thu bán CNG đạt 2.150 tỷ đồng, tăng 43% và doanh thu bán condensate đạt 584 tỷ đồng, gấp 2,4 lần cùng kỳ năm trước. Cả hai mảng kinh doanh này đều đem về biên lãi gộp trên 30% cho GAS.
Đầu năm 2018, Nhà máy xử lý và chế biến khí Cà Mau (GPP Cà Mau) chính thức tung sản phẩm LPG và Condensate ra thị trường. Khi đi vào hoạt động ổn định, nhà máy sẽ cung cấp cho thị trường khoảng 150.000-200.000 tấn LPG và 10.000 tấn condensate mỗi năm, nâng tổng nguồn LPG và condensate GAS tự sản xuất lên 450.000-500.000 tấn và 70.000 tấn mỗi năm, góp phần giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung nhập khẩu từ thị trường nước ngoài.
NDH