Dự thảo Luật Thuế: Lo ngại khi ngân hàng cung cấp thông tin cho cơ quan thuế
VCCI cho rằng, dự thảo quy định ngân hàng có trách nhiệm cung cấp thông tin của khách hàng cho cơ quan thuế thì có khả năng việc áp dụng sẽ tùy tiện...
- 07-05-2018Đề xuất của Bộ Tài chính về sửa đổi các Luật thuế: Những vấn đề đặt ra từ các góc nhìn đa chiều
- 22-04-2018Những phát ngôn ấn tượng về Dự luật Thuế tài sản gây bão dư luận
- 17-04-2018Chính phủ chưa xem xét đề xuất dự án Luật thuế tài sản
"Quy định này còn chưa bảo đảm tính minh bạch ở chỗ không rõ trong các trường hợp nào thì cơ quan quản lý thuế có quyền yêu cầu ngân hàng thương mại cung cấp các thông tin này và căn cứ vào nhu cầu quản lý nhà nước cụ thể là gì?", VCCI đặt câu hỏi.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có ý kiến góp ý đối với dự thảo Luật quản lý thuế (sửa đổi) của Bộ Tài chính.
Đáng chú ý trong bản góp ý của VCCI nhấn mạnh đến nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong việc quản lý thuế được quy định tại Điều 29 và Điều 100 của dự thảo.
Theo đó, dự thảo quy định ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp thông tin tài khoản của khách hàng là người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế. Các thông tin này bao gồm: thông tin về mở tài khoản; số tài khoản; nội dung giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản; mã số thuế của người nộp thuế.
VCCI cho rằng, quy định này là chưa bảo đảm tính minh bạch ở chỗ không rõ trong các trường hợp nào thì cơ quan quản lý thuế có quyền yêu cầu ngân hàng cung cấp các thông tin này và căn cứ vào nhu cầu quản lý nhà nước cụ thể là gì.
"Nếu quy định mở như hiện nay thì có khả năng hiểu theo nhiều cách khác nhau, việc áp dụng có thể rất tùy tiện trên thực tế", đơn vị này nhấn mạnh.
Mặt khác, cũng theo VCCI, quan hệ giữa ngân hàng thương mại và người nộp thuế là quan hệ dân sự. Khi ký kết hợp đồng, ngân hàng thương mại cần phải cho khách hàng biết các trường hợp thông tin của họ sẽ được cung cấp cho bên thứ ba. Các trường hợp này cần phải hợp lý và rõ ràng để bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức và bảo đảm ngân hàng thương mại không phải chịu gánh nặng tuân thủ yêu cầu này của cơ quan quản lý thuế.
VCCI cho rằng, cần phải quy định rõ cấp có thẩm quyền của cơ quan quản lý thuế trong việc ra yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin cho cơ quan thuế.
Đối với mã số thuế khách hàng, VCCI đặt câu hỏi: "Không hiểu tại sao cơ quan quản lý thuế lại yêu cầu ngân hàng thương mại cung cấp thông tin này trong khi đây là cơ quan chủ quản? Không phải trong mọi trường hợp khách hàng của ngân hàng thương mại cũng có mã số thuế, vì vậy yêu cầu như vậy là không bảo đảm tính khả thi".
Góp ý tương tự với quy định: "Các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến người nộp thuế có trách nhiệm cung cấp thông tin bằng văn bản hoặc dữ liệu điện tử liên quan về người nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế", VCCI cho rằng, cần có giới hạn cụ thể các loại thông tin này.
Đơn vị này cũng đề xuất ban soạn thảo bổ sung các trường hợp mà các ngân hàng thương mại được loại trừ trách nhiệm khi trích tiền để nộp thuế từ tài khoản của người nộp thuế, phong tỏa tài khoản của người nộp thuế bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế, để thống nhất với quy định của pháp luật ngân hàng.
Ngoài ra, dự thảo cũng quy định: "Trường hợp người nộp thuế có bảo lãnh nhưng người nộp thuế không nộp thuế, tiền chậm nộp… đúng thời hạn quy định thì ngân hàng thương mại là đơn vị bảo lãnh phải chịu trách nhiệm nộp thuế đúng thời hạn quy định thay cho người nộp thuế".
VCCI cho rằng, xuất phát từ nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước thì các tổ chức tín dụng chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong các trường hợp như yêu cầu thực hiện bảo lãnh nằm trong thời hạn thực hiện bảo lãnh theo chứng thư bảo lãnh và số tiền bảo lãnh nằm trong số tiền bảo lãnh theo chứng thư bảo lãnh.
"Do vậy, đề xuất ban soạn thảo xem xét và chỉnh sửa để thể hiện đúng bản chất của bảo lãnh thuế, dưới góc độ là nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng, theo hướng ngân hàng thương mại bảo lãnh trong phạm vi hợp đồng bảo lãnh. Đồng thời cơ quan thuế phải thông báo cho ngân hàng để ngân hàng biết và đối chiếu với chứng thư bảo lãnh đã cấp để thực hiện, hoặc có giải trình phù hợp với khách hàng", VCCI nêu ý kiến.
Vneconomy