Hai cựu Chủ tịch Đà Nẵng "tiếp tay" cùng Vũ "nhôm" gây thiệt hại gần 20.000 tỉ đồng
Hai cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Trần Văn Minh và Văn Hữu Chiến có hành vi vi phạm sử dụng tài sản Nhà nước, vi phạm các quy định về quản lý đất đai, giúp Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ "nhôm") thâu tóm nhà đất công sản, gây thiệt hại gần 20.000 tỉ đồng.
- 08-08-2019Ly kỳ vụ 2 đối tượng lừa Vũ "nhôm" làm hộ chiếu giả giá 700.000 USD
- 01-06-20192 cựu thứ trưởng Bộ Công an và Vũ "nhôm" lại chuẩn bị hầu toà
- 26-05-2019Ngày mai, Vũ "nhôm" và ông Trần Phương Bình hầu tòa
- 12-05-2019Hoãn phiên phúc thẩm xử hai cựu Thứ trưởng Bộ Công an và Vũ "nhôm"
Cơ quan CSĐT Bộ Công an vừa hoàn tất bản kết luận điều tra và chuyển hồ sơ sang VKSND cùng cấp đề nghị truy tố 21 bị can trong vụ án bán đất công sản cho Phan Văn Anh Vũ (Vũ nhôm), Chủ tịch HĐQT công ty cổ phần xây dựng Bắc Nam 79), gây thất thoát hàng ngàn tỉ đồng xảy ra tại Đà Nẵng .
Đáng chú ý, trong số 21 bị can này, ông Trần Văn Minh, cựu chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, được xác định là người chủ mưu, cầm đầu, bị đề nghị truy tố 2 tội danh "vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí" và "vi phạm các quy định về quản lý đất đai". Cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến cũng bị đề nghị truy tố cả 2 tội danh nêu trên.
Ông Trần Văn Minh (trái) và ông Văn Hữu Chiến
Theo kết luận điều tra, trong thời gian từ năm 2002 đến 2017, Phan Văn Anh Vũ đã đứng tên, nhờ người thân đứng tên thành lập, tham gia góp vốn và trực tiếp điều hành - hoạt động của 5 doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, với mục đích thâu tóm nhiều dự án bất động sản và nhà, đất công sản trên địa bàn TP Đà Nẵng không qua đấu giá quyền sử dụng đất, với giá thấp hơn giá do UBND TP Đà Nẵng quy định và thu lợi cá nhân với số tiền đặc biệt lớn.
Cũng trong thời gian từ năm 2006 đến 2014, bị can Trần Văn Minh, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng (giai đoạn từ năm 2006-2011) và bị can Văn Hữu Chiến, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng (giai đoạn 2011-2014), là người được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước, quản lý đất đai trên địa bàn TP Đà Nẵng. Tuy nhiên, các bị can Trần Văn Minh và Văn Hữu Chiến có hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước, vi phạm các quy định về quản lý đất đai như: Ký ban hành nhiều văn bản và chỉ đạo cấp dưới thực hiện việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất và chuyển nhượng nhà, đất công sản trên địa bàn TP Đà Nẵng cho bị can Vũ "nhôm" trái quy định của pháp luật; giảm giá, giảm hệ số sinh lợi, cho phép chuyển đổi tên người nhận quyền sử dụng đất trái quy định của pháp luật.
Đặc biệt, tại một số dự án bất động sản, trước khi được chuyển nhượng cho Vũ "nhôm", bị can Trần Văn Minh đã chỉ đạo cấp dưới xây dựng các văn bản pháp lý, nhanh chóng hoàn thành hồ sơ, thủ tục để giúp Vũ được nhận chuyển nhượng các dự án này không qua đấu giá quyền sử dụng đất, với giá chuyển quyền sử dụng đất thấp hơn giá do UBND TP Đà Nẵng quy định. Tại một số nhà, đất công sản tại TP Đà Nẵng, mặc dù không thuộc diện được mua chỉ định nhưng Vũ "nhôm" đã lợi dụng những văn bản pháp lý của UBND TP Đà Nẵng để bàn bạc, thỏa thuận với giám đốc một số công ty (là các đơn vị được mua chỉ định nhà đất) đứng tên xin mua nhà công sản, xin giảm hệ số sinh lợi.
Sau đó, trước khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các công ty này lại có văn bản đề nghị thay đổi tên người trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sang cho bị can Vũ "nhôm" hoặc công ty, người thân của Vũ với lý do các đơn vị, cá nhân này là người nộp tiền mua nhà và chia lợi ích với nhau. Mặc dù biết rõ việc này nhưng bị can Trần Văn Minh vẫn đồng ý cho phép chuyển nhượng các nhà, đất công sản cho Phan Văn Anh Vũ hoặc công ty, người thân của Vũ "nhôm". Theo đó, số tiền mà các bị can gây thất thoát của nhà nước trong cả 2 tội danh là gần 20.000 tỉ đồng.
Kết luận điều tra nêu rõ, hành vi phạm tội của các bị can Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến và đồng phạm đã tạo điều kiện cho bị can Vũ "nhôm" thâu tóm nhiều dự án bất động sản và nhà, đất công sản tại TP Đà Nẵng không qua đấu giá quyền sử dụng đất, gây thiệt hại đặc biệt lớn đối với ngân sách Nhà nước, làm mất niềm tin của nhân dân và gây bức xúc lớn trong xã hội.
Người lao động