Hai năm liên tiếp tụt hạng, thách thức mục tiêu top đầu khu vực
Xếp hạng về môi trường kinh doanh Việt Nam nhìn từ xếp hạng mới nhất của Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam chỉ tiến bộ ít, trong khi các nước tiến rất nhanh.
2 năm liên tục tụt hạng dù tăng điểm nhẹ
Ngày 24/10/2019, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố kết quả xếp hạng Môi trường kinh doanh Doing Business 2020, theo đó Việt Nam tăng 1,2 điểm (từ 68,6 lên 69,8 điểm), nhưng giảm 1 bậc xếp hạng chung (từ vị trí 69 xuống vị trí 70).
Điều này đánh dấu hai năm liên tiếp Việt Nam tụt hạng trong báo cáo Doing Business, mỗi năm tụt 1 bậc.
Trong số các chỉ số được WB đánh giá, Việt Nam có 5/10 chỉ số tăng điểm (gồm Khởi sự kinh doanh, Cấp phép xây dựng, Tiếp cận điện năng, Tiếp cận tín dụng, Nộp thuế); 4/10 chỉ số giữ nguyên điểm số (gồm Đăng ký tài sản, Bảo vệ nhà đầu tư, Giao dịch thương mại qua biên giới, và Giải quyết tranh chấp hợp đồng). Duy nhất chỉ số còn lại (Giải quyết phá sản doanh nghiệp) giảm 0,1 điểm.
Tuy có 5 chỉ số tăng điểm, nhưng chỉ 2 chỉ số được ghi nhận cải cách về quy định và thực thi, và cũng là hai trong ba chỉ số tăng hạng. Đó là Tiếp cận tín dụng (cải cách về tiếp cận thông tin tín dụng với việc cung cấp dữ liệu từ nhà bán lẻ); Nộp thuế và bảo hiểm xã hội (nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin ngành thuế, đăng ký và nộp thuế điện tử). Đáng chú ý là trong Nộp thuế và bảo hiểm xã hội, WB ghi nhận cải cách của ngành thuế, trong khi ngành bảo hiểm xã hội không có cải cách so với năm 2018.
Nhờ đó, Tiếp cận tín dụng tăng 5 điểm và 7 bậc (từ thứ hạng 32 lên thứ hạng 25); Nộp thuế và BHXH tăng 22 bậc (từ thứ hạng 131 lên thứ hạng 109).
Đáng chú ý, có tới 6/10 chỉ số còn lại giảm bậc, trong đó: Khởi sự kinh doanh giảm tới 11 bậc; Cấp phép xây dựng giảm 4 bậc; Đăng ký tài sản (giảm 4 bậc); Bảo vệ nhà đầu tư (giảm 8 bậc); Giao dịch thương mại qua biên giới (giảm 4 bậc); và Giải quyết tranh chấp (giảm 6 bậc).
Bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - CIEM) nhận xét, rõ ràng Việt Nam có cải thiện về chất lượng môi trường kinh doanh (qua việc tăng điểm), nhưng còn chậm. Trong khi đó, các nền kinh tế cải cách nhanh và mạnh mẽ hơn, do đó thứ hạng liên tục giảm trong 2 năm gần đây (mỗi năm giảm 1 bậc).
Không tiếp tục đẩy mạnh cải cách thực chất, Việt Nam còn thua kém nhiều nước.
Các nước tiến nhanh
Việt Nam tăng điểm nhẹ, trong khi các nước khu vực vẫn duy trì đà thăng tiến nhanh chóng.Các nước tiến nhanh
Trong ASEAN, Singapore duy trì ổn định vị trí thứ 2 từ năm 2016; Malaysia tăng hạng nhiều và liên tiếp trong hai năm gần đây (qua hai năm tăng 12 bậc); Thái Lan tăng tốc mạnh trong năm 2017 (tăng 20 bậc) và tiếp tục tăng trong 6 bậc trong 2019; Indonesia sau 3 năm cải thiện mạnh mẽ và liên tục (năm 2017 tăng 42 bậc so với 2014), từ 2018 có xu hướng chững lại.
Đáng chú ý, Philippines tăng tới 29 bậc trong năm nay.
“Điều này cho thấy các nền kinh tế có xu hướng cải cách nhanh và quyết liệt hơn chúng ta. Trong ASEAN, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 5, sau Singapore, Malaysia, Thái Lan và Brunei”, bà Nguyễn Minh Thảo chia sẻ.
Kết quả nêu trên cho thấy, cải cách môi trường kinh doanh ở Việt Nam có xu hướng chững lại và thể hiện thách thức với nhiều chỉ số trong nhiều năm không cải thiện hoặc cải thiện rất chậm.
Vì thế, việc đạt mục tiêu của Chính phủ vào nhóm nước ASEAN 4 về cải cách môi trường kinh doanh càng trở nên khó khăn, thách thức hơn. Thủ tướng Chính phủ thể hiện nhiều nỗ lực, quyết tâm cải cách, song việc hiện thực hoá bằng hành động cải cách của các bộ, ngành, địa phương còn hạn chế.
Do đó, theo bà Nguyễn Minh Thảo, cải cách trước hết phải từ tư duy quản lý của các bộ ngành, cải cách theo hướng vì mục tiêu phát triển doanh nghiệp. Do đó, cần có sự quan tâm, vào cuộc một cách đồng bộ, mạnh mẽ và thực chất của các bộ, ngành, địa phương.
Đối với các chỉ số nhiều năm không có cải thiện hoặc cải thiện chậm (như giao dịch thương mại qua biên giới, đăng ký tài sản,... ), chuyên gia CIEM cho rằng cần có sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan; sửa đổi các quy định và cải cách thực thi để tạo sự chuyển biến. Đối với các chỉ số còn có sự khác biệt lớn giữa quy định văn bản và thực thi (như Cấp phép xây dựng) phải được giám sát, chấn chỉnh nhằm đảm bảo minh bạch, tạo niềm tin cho người dân và doanh nghiệp.
“Đặc biệt, hai chỉ số thuộc lĩnh vực tư pháp, nhất là phá sản doanh nghiệp - trong liên tục nhiều năm ở thứ hạng cuối bảng - cần có sự vào cuộc, phối hợp của ngành toà án để tạo sự thay đổi có ý nghĩa ở các chỉ số này”, bà Thảo nhấn mạnh và đánh giá việc rút ngắn thời gian, giảm chi phí cho doanh nghiệp thông qua thực thi dịch vụ công trực tuyến một cách thực chất, “tránh hô hào, hình thức”.
Vietnamnet