Kỳ vọng vào "siêu dự án" 12 tỷ USD ngoài khơi của Việt Nam, cổ phiếu nhóm dầu khí đua nhau “xanh, tím”
VCBS đánh giá triển vọng ngành dầu khí Việt Nam năm 2025 vẫn tích cực với nhiều yếu tố kỳ vọng.
Mới đây, HĐQT CTCP Bọc ống Dầu khí Việt Nam (mã: PVB) công bố nghị quyết về việc ký Hợp đồng Bọc ống (Onshore Coating of Line pipe and Bend) – Dự án EPC Đường ống dẫn khí Lô B – Ô Môn với Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (mã: PVS).
Hợp đồng có giá trị gần 426 tỷ đồng, có thời gian thực hiện trong vòng 282 ngày kể từ ngày ký hợp đồng (16/12/2024).
Đại dự án Lô B - Ô Môn là dự án trọng điểm, được mong chờ nhất của ngành Dầu khí trong giai đoạn từ nay đến 2030, tổng mức đầu tư lên đến gần 12 tỷ USD. Dự án bao gồm mỏ khí Lô B (thượng nguồn), đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn (trung nguồn), và 4 nhà máy điện khí tại Trung tâm Điện lực Ô Môn với tổng công suất dự kiến 3.800 MW. Trong đó tổng chiều dài đường ống dẫn khí của dự án là 431 km bao gồm 329 km dưới biển và 102 km trên cạn.
Điều này đã "phả hơi nóng" vào nhóm cổ phiếu dầu khí trên sàn chứng khoán trong phiên 18/12.
Điển hình, các cổ phiếu PVS, PVD, PVP hay BSR nhuộm sắc xanh với mức tăng từ 2% tới 3% giá trị, PGD cũng tranh thủ tăng 1,9%. Nổi bật, PVB được chọn là đơn vị đảm nhiệm công việc bọc đường ống bật tăng kịch trần, cổ phiếu nhuộm “sắc tím” trắng bên bán lên mức giá cao nhất 2 tháng.
Nếu tính từ đầu năm, nhiều cổ phiếu dầu khí như BSR, PVB hay PVP đã chứng kiến mức tăng hàng chục %. Ngược chiều, PVS hay PVD có phần kém sắc hơn đôi chút, thị giá giảm khoảng 10%.
Ngành dầu khí Việt Nam năm 2025 vẫn tích cực
Trong báo cáo cập nhật mới đây, Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng triển vọng ngành dầu khí Việt Nam năm 2025 vẫn tích cực với nhiều yếu tố kỳ vọng.
Trước tiên, giá dầu vẫn duy trì khả quan theo dự báo các tổ chức lớn về triển vọng giá dầu 2025. Những rủi ro địa chính trị đang diễn ra và việc dự trữ dầu toàn cầu giảm do việc cắt giảm sản lượng của OPEC+kể từ năm 2022 (tổng cộng 5,86 triệu thùng/ngày, tương đương khoảng 5,7% nhu cầu toàn cầu), có thể sẽ giúp cân bằng thị trường dầu trong vài tháng tới.
Bên cạnh đó, ngành khoan dầu khả quan từ các hoạt động khoan ở khu vực Trung Đông sẽ là điều kiện thuận lợi mang đến triển vọng tốt giá thuê giàn khoan, cũng như các hợp đồng ký với thời hạn 2-3 năm giúp tăng hiệu suất hoạt động giàn.
Số lượng giàn khoan thặng dư trên thị trường dự kiến sẽ giảm từ 50 giàn vào đầu năm 2024 xuống 40 giàn trong cuối năm 2024 trước khi duy trì ở mức này cho đến tháng 11/2025. Với bối cảnh trên, dự báo giá cho thuê giàn khoan khu vực ĐNA sẽ tiếp tục neo ca o, giá cho thuê giàn khoan tại Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung.
Đồng thời, việc phát triển các dự án nội địa góp phần đảm bảo phát triển ngành điện phù hợp với các mục tiêu quốc gia và đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia. Tiến độ các dự án nội địa được đẩy nhanh sẽ hỗ trợ hoạt động E&P các doanh nghiệp thượng nguồn.
Theo VCBS, nguồn cung khí nội địa mới cho điện khí chỉ còn nguồn khí miền Trung (Cá Voi Xanh và Báo Vàng) và nguồn khí Lô B. Tổng cung khí cho điện giai đoạn 2035-2045 sẽ chỉ còn duy trì khoảng 7,7 tỷ m3/năm.
Trong phần trữ lượng nguồn khí nội địa đã phát hiện nhưng chưa khai thác đến hiện nay, trữ lượng từ các dự án này chiếm tới 30%, bằng với trữ lượng còn lại của các mỏ đang khai thác. Luật Điện lực (sửa đổi), có hiệu lực từ ngày 1/2/2025 ưu tiên phát triển điện khí sử dụng khí nội địa, đồng nghĩa với việc huy động cao từ mỏ khí trong nước như Lô B cho thấy quyết tâm phát triển các dự án trong nước của Chính Phủ.
Ngoài ra, với nhu cầu điện ngày càng tăng, nhu cầu khí trong nước cũng được dự báo tăng tương ứng trong các lĩnh vực như hóa chất, công nghiệp, giao thông vận tải, đô thị và đặc biệt là sản xuất điện
(chiếm 80%)…
Tổng nhu cầu khí dự kiến theo quy hoạch ngành khí (nhu cầu cơ sở) lên tới khoảng 13 tỷ m3 vào năm 2020, hơn 22 tỷ m3 vào năm 2025 và trên 34 tỷ m3 vào năm 2030. Bên cạnh đó, theo QHĐ VIII, Việt Nam có kế hoạch chuyển đổi cơ cấu năng lượng từ than đá sang các nguồn năng lượng phát thải thấp để đáp ứng cam kết phát thải ròng bằng 0 đến 2050. Tổng quy mô công suất điện khí và LNG đến năm 2030 được quy hoạch là 30,4GW (LNG: 22,5 GW, khí nội địa,
7,9GW).
Do đó, mức tiêu thụ khí đốt cũng được dự báo tăng trong trung và dài hạn mặc dù khí tự nhiên được coi là một nhân tố ngắn hạn trong lộ trình chuyển dịch năng lượng. Nhóm phân tích VCBS nhận định mục tiêu dài hạn của chiến lược là xây dựng lộ trình để các nhà máy điện khí LNG chuyển đổi sang kết hợp hydro vào cơ cấu phát điện, sự chuyển dịch sang sử dụng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) không chỉ giúp duy trì sự ổn định cho hệ thống điện quốc gia mà còn đảm bảo an ninh năng lượng dài hạn cho Việt Nam.
Nhịp sống thị trường