Liên kết tiểu vùng Nam Trung Bộ chưa hiệu quả: Nguyên nhân từ đâu?
Qua 18 năm thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW, tính liên kết giữa các địa phương tiểu vùng Nam Trung Bộ chưa thực sự hiệu qảu, kết quả hợp tác còn khiêm tốn.
- 23-06-2022GDP Việt Nam có thể tăng trưởng 7,6% trong quý III
- 22-06-2022Cán cân thương mại bất ngờ thâm hụt lớn trong 2 kỳ liên tiếp
- 22-06-2022[Trực quan] Top 10 địa phương điều hành kinh tế tốt nhất đã thay đổi như thế nào trong 16 năm qua?
Kết quả khiêm tốn
Tiểu vùng Nam Trung Bộ , gồm 4 tỉnh: Phú Yên , Khánh Hòa , Ninh Thuận , Bình Thuận . Vùng có quần đảo Trường Sa và thềm lục địa rộng lớn, có ý nghĩa chiến lược về an ninh quốc phòng; có nhiều eo, cửa sông, vũng, vịnh thuận lợi cho phát triển kinh tế biển, du lịch, vận tải; có điều kiện giao thông thuận lợi; tài nguyên khoảng sản khá phong phú.
Qua 18 năm thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW và các nghị quyết về phát triển từng địa phương, kinh tế các địa phương tiểu vùng Nam Trung Bộ đã có những bước phát triển, tuy nhiên, kết quả hợp tác, liên kết giữa các địa phương còn hạn chế, kết quả khiêm tốn (Ảnh minh họa: Phát triển điện gió, điện mặt trời tại tỉnh Ninh Thuận)
Thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, các tỉnh thuộc tiểu vùng Nam Trung Bộ đã triển khai các hoạt động, để đẩy mạnh liên kết phát triển tiểu vùng và vùng Duyên hải Trung Bộ.
Tuy nhiên, qua 18 năm thực hiện, kết quả đạt được còn rất khiêm tốn.
Việc liên kết trong xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các lĩnh vực hiện mới chỉ được thực hiện thông qua các buổi hội nghị của ngành. Theo nghiên cứu của Viện Kinh tế xã hội vùng Trung Bộ, việc lồng ghép các nội dung liên kết phát triển vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trong Tiểu vùng còn mờ nhạt và chưa được cụ thể hóa. Tính liên kết mới chỉ dừng lại ở mức độ cam kết thỏa thuận giữa lãnh đạo các địa phương. Phạm vi liên kết còn hẹp, các lĩnh vực liên kết còn đơn điệu và thiếu tính bền vững.
Các kết quả thu hút đầu tư ở vùng bước đầu cũng cho thấy có sự liên kết, phân bổ lĩnh vực thu hút đầu tư phù hợp với đặc thù và lợi thế của từng địa phương. Tuy nhiên, quy mô và tốc độ thu hút vốn đầu tư phát triển giữa các địa phương trong Tiểu vùng cũng có sự cách biệt. Trong đó, Ninh Thuận vượt trội với tốc độ tăng trưởng nhanh nhất về thu hút đầu tư, bình quân đạt 41,8%/năm giai đoạn 2017-2021. Tỷ trọng vốn đầu tư của tỉnh Ninh Thuận trong tổng vốn đầu tư của Tiểu vùng tăng từ 8,42% năm 2017 lên 18,65% năm 2021. Trong vùng chỉ có Phú Yên là có quy mô vốn đầu tư thấp nhất với 18,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,62% của vùng. Ninh Thuận, Khánh Hòa thu hút FDI vượt trội hơn hẳn Phú Yên, Bình Thuận.
Liên kết đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Tiểu vùng chủ yếu được triển khai ở hai phương diện gồm liên kết giữa các cơ sở đào tạo với nhau và liên kết giữa cơ sở đào tạo và địa phương/doanh nghiệp.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu ngành nghề trong toàn Tiểu vùng, xuất hiện ngày càng nhiều ngành, nghề mới đòi hỏi ứng dụng công nghệ cao. Mặc dù các cơ sở đào tạo đã chú trọng vào xu hướng chuyển biến này nhưng vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu thực tế, đặc biệt là các nghề thuộc lĩnh vực tự động hóa. Điều này thể hiện tính liên kết giữa cơ sở đào tạo và nhu cầu xã hội (đơn vị sử dụng lao động) chưa cao. Hình thức đào tạo hiện tại chủ yếu mang tính chất đại trà, theo nhu cầu của người học hơn là theo nhu cầu của đối tượng sử dụng. Do vậy, nguồn nhân lực của Tiểu vùng thừa về số lượng nhưng thiếu về chất lượng, điều này thể hiện qua tỷ lệ thất nghiệp của Tiểu vùng tương đối cao, 3,16% trong năm 2020 (Tổng cục Thống kê, 2020).
Trong khi đó, sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo với nhau chưa được chú trọng đúng mức; chưa có sự liên kết đào tạo giữa các trường đại học, cao đẳng trong Tiểu vùng, kể cả trong tỉnh.
Ngoài ra, liên kết trong phát triển khoa học công nghệ, liên kết khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, …cũng còn lỏng lẻo, chưa hiệu quả. Riêng liên kết phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông đường bộ chung giữa các địa phương được thực hiện có kết quả bước đầu.
Ngày 24/6, tại tỉnh Khánh Hòa, Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW sẽ phối hợp với Tỉnh ủy Khánh Hòa tổ chức Tọa đàm: "Liên kết phát triển tiểu vùng Nam Trung Bộ trong bối cảnh mới"
Cần những cơ chế độ phá để liên kết tiểu vùng Nam Trung Bộ hiệu quả
Theo ý kiến nhiều địa phương và các chuyên gia, tính liên kết phát triển các địa phương trong Tiểu vùng chưa cao do nhiều nguyên nhân. Việc chạy theo các lợi ích phát triển kinh tế giữa các địa phương đã làm cho liên kết vùng bị suy giảm. Các địa phương đều đặt mục tiêu trở thành trung tâm, động lực phát triển, đều lấy kinh tế biển làm định hướng phát triển. Các địa phương trong Tiểu vùng đều đẩy mạnh phát triển du lịch biển, phát triển cảng biển, phát triển các ngành công nghiệp ven biển v.v…. Điều này sẽ làm phá vỡ đi sự phân bố sản xuất kinh doanh để tạo ra chuỗi liên kết phát triển.
Bên cạnh đó, chưa có một chủ thể đứng ra tổ chức và thực hiện liên kết và do đó chưa thể có được cơ chế liên kết phát triển hiệu quả; thiếu sự phối hợp giữa các địa phương trong việc hình thành chính sách thu hút và phân bổ đầu tư; thiếu phối hợp giữa thẩm quyền quy hoạch và đầu tư; thiếu sự liên kết trong quy hoạch giữa các tỉnh trong tiểu vùng và toàn thể vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ.
Theo Tiến sĩ Trần Du Lịch, liên kết phát triển giữa các tiểu vùng, vùng đang là nhu cầu thực tiễn, bức thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay nếu không có những cơ chế điều phối đột phá từ Trung ương thì tồn tại này vẫn khó có thể khắc phục được trong thời gian tới.
Nhằm đánh giá kết quả liên kết phát triển tiểu vùng Nam Trung Bộ trong thời gian qua; những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ; đề xuất các quan điểm, giải pháp, cơ chế, chính sách, thu hút nguồn lực (tài chính, khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực…) để thúc đẩy liên kết phát triển tiểu vùng Nam Trung Bộ nói riêng, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ trong bối cảnh mới, ngày 24/6, Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW phối hợp với Tỉnh ủy Khánh Hòa tổ chức Tọa đàm: "Liên kết phát triển tiểu vùng Nam Trung Bộ trong bối cảnh mới". Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương , Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW chủ trì Tọa đàm.
Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ gồm 14 tỉnh, thành phố, chia làm 3 tiểu vùng: Tiểu vùng Bắc Trung Bộ (gồm 5 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị); Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (gồm 5 tỉnh, thành: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định); Tiểu vùng Nam Trung Bộ (gồm 4 tỉnh: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận).
Để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của vùng ngày 16/8/2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010. Sau đó, ngày 02/8/2012, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 25-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW
Nghị quyết 39-NQ/TW đã khẳng định: Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là vùng có tiềm năng phát triển công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, thủy điện, vật liệu xây dựng; nhiều lợi thế trong trung chuyển hàng hóa, dịch vụ cho các nước tiểu vùng sông Mê Kông và quốc tế bằng đường sắt, đường hàng không, đường bộ, đường biển;...
Mục tiêu của Nghị quyết 39-NQ/TW: Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ sớm tiến kịp các vùng khác trong cả nước và trở thành một đầu cầu lớn của cả nước trong giao lưu, hợp tác quốc tế cải thiện căn bản đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân trong vùng; hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của thiên tai; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Về phát triển kinh tế: Phấn đấu thời kỳ từ 2001-2010 đạt mức tăng tổng sản phẩm bình quân hàng năm (GDP) của vùng khoảng 8-9%. Đến năm 2010, GDP bình quân đầu người bằng 2,2 lần so với năm 2000; tỉ trọng kinh tế các khu vực I,II,III là 28%-34%; tỉ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%.
Báo Công Thương