MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Liệu Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng, lạm phát và ổn định vĩ mô năm 2019?

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong 6 tháng đầu năm như tăng trưởng GDP vẫn ở mức cao, lạm phát được kiểm soát, giải ngân FDI tốt, môi trường kinh doanh cải thiện rõ rệt, các cân đối vĩ mô đảm bảo, tiến trình hội nhập tích cực...thì kinh tế-xã hội 6 tháng đầu năm và từ nay đến hết năm cũng cho thấy 6 khó khăn, thách thức lớn.

TS Cấn Văn Lực
TS Cấn Văn Lực
Chuyên gia tài chính ngân hàng
291 bài viết

TS.Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố Báo cáo nghiên cứu về kinh tế vĩ mô Việt Nam nửa cuối năm 2019 trong đó đề cập đến những thành công của nền kinh tế 6 tháng đầu năm, đồng thời chỉ ra những khó khăn, thách thức mà nền kinh tế phải vượt qua từ nay đến cuối năm.

Chúng tôi xin được đăng nguyên văn báo cáo của nhóm tác giả để quý độc giả cùng theo dõi.

-----------

Triển vọng kinh tế thế giới nửa đầu năm 2019 kém lạc quan do tăng trưởng kinh tế tại các nước, khu vực như Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản... đang chậm lại và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Từ quý 2, căng thẳng thương mại Mỹ-Trung leo thang và diễn biến khó lường, đã ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu. Trong bối cảnh đó, ngân hàng trung ương các nước lớn duy trì trạng thái chờ đợi và quan sát, đã có tín hiệu nới lỏng tiền tệ ban đầu nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Các dự báo gần đây đều hạ tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu. Theo đó, GDP toàn cầu dự báo chỉ tăng 2,9% năm nay (so với 3,2% năm 2018) và thương mại toàn cầu chỉ tăng khoảng 3% (so với mức trên 4% của 2017-2018).

Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực, quyết liệt, đồng bộ; kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm có 6 điểm sáng. Một là, tăng trưởng kinh tế đạt 6,76% (thấp hơn 7,05% của cùng kỳ năm 2018, song vẫn cao hơn mức tăng cùng kỳ của 10 năm từ 2008-2017), với động lực chính từ phía cung là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và từ phía cầu là tiêu dùng nội địa và đầu tư tư nhân và FDI. Đây là kết quả rất đáng ghi nhận, nhất là trong bối cảnh tình hình kinh tế, địa chính trị thế giới có nhiều bất lợi. Hai là, lạm phát được kiểm soát dù có nhiều bất lợi cả trong nước (tăng giá điện, điều chỉnh giá xăng dầu, lương cơ bản, học phí…) và ngoài nước (giá hàng hóa, giá dầu, giá vàng biến động mạnh); CPI bình quân tăng 2,64% so với cùng kỳ, thấp hơn mức tăng 3,29% của cùng kỳ năm 2018. 

Ba là, giải ngân vốn FDI tăng trưởng tốt: đạt 9,1 tỷ USD, tăng 8,1% so với cùng kỳ 2018, trong khi đó, vốn FDI đăng ký mới và bổ sung (gồm cả vốn góp, mua cổ phần) đạt 18,5 tỷ USD, bằng 90,8% cùng kỳ năm trước (là một năm có mức tăng đột biến do 1 vài siêu dự án, siêu thương vụ mua cổ phần). Bốn là, môi trường kinh doanh có sự cải thiện rõ nét hơn, trong 6 tháng đầu năm, cả nước có 67 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng không nhiều (3,76%) về số doanh nghiệp, nhưng tăng mạnh (32,56%) về vốn đăng ký và về việc làm (tăng 48,8%), trong khi số doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động giảm nhẹ (-0,66%) so với cùng kỳ năm 2018. Việt Nam cũng được Fitch và S&P nâng hạng tín nhiệm trong tháng 4 và tháng 5/2019.

Năm là, các cân đối lớn và ổn định vĩ mô được đảm bảo trong bối cảnh thị trường quốc tế nhiều biến động. Cụ thể, cân đối thu-chi ngân sách diễn biến tích cực hơn, thu hẹp mức thâm hụt ngân sách; lãi suất huy động tăng nhẹ (cơ bản là xảy ra cục bộ, do thời vụ và đáp ứng chuẩn mực an toàn mới) nhưng lãi suất cho vay cơ bản ổn định; nợ xấu tiếp tục giảm (nợ xấu nội bảng giảm từ 2% cuối năm 2018 xuống 1,91%; nợ xấu gộp giảm từ 6,5% cuối năm 2018 xuống 5,88% hết tháng 5/2019). Tỷ giá tương đối ổn định (tỷ giá giao dịch tăng khoảng 0,54% so với đầu năm); dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng. Đặc biệt, Việt Nam cũng đã kiên trì, tích cực trao đổi với phía Mỹ, để chưa bị đưa vào diện thao túng tiền tệ. 

Sáu là, tiến trình hội nhập quốc tế đạt kết quả rất tích cực, với Hiệp định CPTPP hiệu lực từ 14/1/2019, Hiệp định EVFTA và IPA với EU được ký kết (dự kiến hiệu lực từ đầu 2020); Việt Nam trúng cử ủy viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2020-2021, hướng tới vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2020.

Liệu Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng, lạm phát và ổn định vĩ mô năm 2019? - Ảnh 1.

Nền kinh tế những tháng đầu năm đã có nhiều điểm sáng (hình ảnh minh họa)

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cho rằng kinh tế-xã hội trong 6 tháng đầu năm và từ nay đến hết năm 2019 cũng cho thấy 6 khó khăn, thách thức chính.

- Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài: Nhóm tác giả đồng tình với các nhận định gần đây, đều gom lại 3 rủi ro chính, đó là: (i) căng thẳng thương mại giữa các nước lớn (nhất là Mỹ-Trung) vẫn diễn biến phức tạp, khó lường; (ii) từ rủi ro chính sách nêu trên, cùng với niềm tin đầu tư, tiêu dùng giảm, dẫn đến sự tăng trưởng chậm lại của kinh tế thế giới và các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, khu vực châu Âu; (iii) rủi ro địa chính trị diễn biến khó lường, khiến giá dầu, giá vàng biến động. Những rủi ro này có tác động tiêu cực đối với thương mại (ít nhất là ngắn hạn đối với xuất khẩu), đến đầu tư và áp lực lạm phát của Việt Nam.

- Hai là, các động lực tăng trưởng chính đang có dấu hiệu chậm lại. Trong 6 tháng đầu năm, khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản (nhất là nông nghiệp) tăng trưởng thấp: chỉ tăng 2,39% đóng góp 0,41 điểm % (so với mức tăng 4%, đóng góp 0,67 điểm % cùng kỳ năm 2018); trong đó, có nguyên nhân từ dịch tả lợn Châu Phi và biến đổi khí hậu (thời tiết nắng nóng, hạn hán, cháy rừng lan rộng....).

 Khu vực dịch vụ chỉ tăng 6,69%, đóng góp 2,89 điểm % (thấp hơn mức tăng 6,89% và đóng góp 2,98 điểm % vào tăng trưởng chung của cùng kỳ năm 2018). Nguyên nhân chính dẫn đến mức giảm này là do ngành bán buôn, bán lẻ cùng ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức tăng và đóng góp thấp hơn cùng kỳ. Đồng thời, dịch vụ du lịch với lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng chậm lại (chỉ tăng 7,5% so với mức 27,2% năm 2018).

- Ba là, áp lực lạm phát tăng vẫn hiện hữu: mặc dù CPI năm 2019 dự kiến sẽ được kiểm soát trong mức mục tiêu, nhưng áp lực lạm phát gia tăng vẫn lớn, chủ yếu là do: (i) diễn biến giá dầu, giá vàng, tỷ giá trên thế giới khó lường (giá dầu dự báo tăng 5-7% trong năm 2019); (ii) tác động của việc điều chỉnh giá điện, giá xăng dầu và một số mặt hàng do Nhà nước quản lý còn diễn biến trong các tháng còn lại của năm; (iii) thời tiết được dự báo nắng nóng, thất thường hơn, tác động tiêu cực tới sản lượng nông nghiệp khiến giá nhóm hàng lương thực tăng trở lại và giá thịt lợn có thể tăng sau khi dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát do thiếu nguồn cung. Nếu không khéo kiểm soát, không khéo phối hợp chính sách, khả năng CPI bình quân chạm ngưỡng 4% có thể xảy ra.

- Bốn là, xuất khẩu tăng trưởng chậm lại: 6 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2018 (thấp hơn mức tăng 16% cùng kỳ năm 2018). Đây cũng là xu thế chung của thương mại toàn cầu, nhưng rõ ràng là mức tăng thấp đối với Việt Nam, nhất là các thị trường trọng điểm như xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ tăng 1%, sang EU giảm 0,4%....v.v.

- Năm là, giải ngân vốn đầu tư công, vốn ODA tiếp tục là điểm nghẽn và tái cơ cấu DNNN rất chậm: mặc dù vốn đầu tư công chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội (31%), trong khi khu vực ngoài Nhà nước đạt tốc độ tăng đầu tư vốn khá cao (16,4%), tốc độ giải ngân vốn ngân sách chưa có nhiều cải thiện, giải ngân đầu tư phát triển mới đạt 27,7% kế hoạch năm. Hết 6 tháng đầu năm, cả nước mới hoàn thành cổ phần hoá 35/127 DNNN (tương đương 27,6% kế hoạch), tiến trình thoái vốn giai đoạn 2016-2020 đến nay mới đạt 21,8% về số doanh nghiệp cần thoái vốn.

- Sáu là, xuất phát từ căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, Việt Nam đã bị đưa vào danh sách theo dõi về thao túng tiền tệ (vì Việt Nam đã chạm 2/3 ngưỡng). Chính phủ, NHNN, các bộ, ngành liên quan đã tích cực trao đổi, giải trình với phía Mỹ, và Việt Nam chưa bị kết luận là thao túng tiền tệ, nhưng rủi ro chạm ngưỡng có thể xảy ra nếu không quyết liệt và không phối hợp chính sách tốt. Ngoài ra, cần hết sức lưu ý rủi ro bị Mỹ áp thuế cao hơn hoặc áp dụng rào cản khác do hiện tượng "đội lốt", gian lận thương mại xảy ra.

Liệu Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng, lạm phát và ổn định vĩ mô năm 2019? - Ảnh 2.

Một trong những thách thức của nền kinh tế từ nay đến cuối năm là giải ngân vốn đầu tư công, vốn ODA tiếp tục là điểm nghẽn và tái cơ cấu DNNN rất chậm (ảnh minh họa)

Nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng, lạm phát cùng với ổn định vĩ mô; theo TS. Cấn Văn Lực và nhóm chuyên gia của Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, nhiệm vụ còn lại trong nửa cuối năm 2019 là rất nặng nề, đòi hỏi thực hiện đồng bộ, quyết liệt 4 nhóm giải pháp dưới đây.

- Đối với mục tiêu tăng trưởng GDP: để GDP cả năm tăng 6,8%, GDP quý 3 và 4 phải tăng ít nhất 6,7% và 6,9%, tương đương GDP 9 tháng tăng khoảng 6,74% (mức tăng 9 tháng 2018 là 6,98%); trong đó, các ngành dịch vụ và nông, lâm, thủy sản cần có mức tăng trưởng cao hơn, nhất là khi ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nhiều khả năng không thể duy trì mức đóng góp tích cực liên tục trong thời gian dài. Theo đó, cần tập trung vào các động lực tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm 2019:

(i) tăng cường tận dụng cơ hội từ hiệp định CPTPP và căng thẳng thương mại để đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập siêu; (ii) tiếp tục cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường kinh doanh (cần sớm sửa đổi các nghị định về thanh toán tài sản công, về chống chuyển giá đối với doanh nghiệp liên kết…); 

(iii) đối với hoạt động thu hút FDI, cần đa dạng hóa các đối tác đầu tư cùng với việc đẩy mạnh thu hút FDI từ các đối tác truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan; đồng thời, cần sớm ban hành Chiến lược thu hút FDI với việc bổ sung các tiêu chuẩn đầu tư nhằm sàng lọc các dự án FDI với hàm lượng công nghệ cao hơn, thân thiện môi trường và có sự lan tỏa, kết nối với doanh nghiệp trong nước; (iv) theo dõi, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho ngành nông nghiệp (kiên quyết ngăn chặn dịch tả lợn châu Phi, nạn cháy rừng lan rộng), và tạo điều kiện cho các ngành dịch vụ (nhất là hoạt động bán buôn, bán lẻ, vận tải, kho bãi, logistics, CNTT, du lịch…) lấy lại đà tăng trưởng.

Đồng thời, kiên quyết đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công; tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn: (i) Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 70/NQ-CP của Chính phủ và Chỉ thị số 09/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; (ii) đẩy nhanh công tác phân giao kế hoạch; khâu chuẩn bị dự án, lựa chọn nhà thầu, giải phóng mặt bằng; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tiến độ thi công; khẩn trương hoàn thiện hồ sơ thanh toán khi có khối lượng nghiệm thu, không gây nợ đọng xây dựng cơ bản;

(iii) xem xét, điều chỉnh kế hoạch từ dự án giải ngân chậm sang dự án có nhu cầu bổ sung vốn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân hoặc dự án đã có khối lượng hoàn thành, tránh điều chỉnh kế hoạch dồn vào cuối năm; (iv) tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật với các cá nhân cố tình vi phạm, cản trở làm chậm tiến độ giải ngân vốn,...v.v. Đối với việc cổ phần hóa, thoái vốn DNNN; cần nghiêm túc thực hiện các chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ tại cuộc họp về vấn đề này ngày 8/7/2019.

- Đối với chỉ tiêu lạm phát: mặc dù mức tăng của CPI tương đối thấp trong 6 tháng đầu năm, song từ nay đến hết năm 2019, lạm phát vẫn chịu nhiều áp lực tăng do các yếu tố như đã nêu trên. Theo đó, cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, giá cả và chính sách tiền tệ, giãn lộ trình tăng giá các dịch vụ do Nhà nước quản lý một cách hợp lý, không tăng giá dồn dập một thời điểm; phối hợp trung hòa các lượng tiền trong nền kinh tế (gồm cả tiền thu được từ CPH, thoái vốn, bán chiến lược…) nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Theo tính toán của nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, nếu khéo kiểm soát, CPI bình quân năm 2019 trong tầm kiểm soát, tăng khoảng 3,5-3,8%.

- Cần chú trọng tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc bên ngoài: trong bối cảnh nhiều rủi ro, bất định; Chính phủ cần chỉ đạo, tập trung vào 5 giải pháp chính để tăng khả năng chống chịu: (i) thúc đẩy sự phát triển cân bằng của thị trường tài chính, trong đó, chú trọng phát triển thị trường vốn, sớm cho phép thành lập tổ chức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp độc lập, chuẩn hóa các tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán, phát triển cơ sở thông tin - dữ liệu về doanh nghiệp; tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm đối với thị trường chứng khoán, chú trọng phát triển thị trường chứng khoán phái sinh như là một kênh quản lý rủi ro (thay vì đầu cơ); (ii) chú trọng nâng cao năng lực tài chính và khả năng quản lý rủi ro của các tổ chức tài chính (đẩy nhanh quá trình tăng vốn và áp dụng tiêu chuẩn Basel 2);

(iii) kiểm soát chặt chẽ, tiếp tục giảm nợ công, nợ nước ngoài và tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối  (phấn đấu mức tương đương 4-5 tháng nhập khẩu); (iv) nâng cao năng lực quản lý, giám sát các rủi ro mang tính hệ thống, rủi ro chéo; đổi mới phương thức quản lý, giám sát, hướng tới xây dựng bộ chỉ số cảnh báo sớm rủi ro thị trường tài chính; (v) sớm xây dựng hành lang pháp lý nhằm chủ động cách tiếp cận, quản lý tiền kỹ thuật số, ngân hàng số, Fintech, ví điện tử, cho vay ngang hàng và thanh toán điện tử…v.v.

- Cuối cùng, cần theo dõi chặt chẽ diễn biến căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, chính sách tài khóa-tiền tệ của các nước lớn nhằm kiểm soát dòng vốn, có biện pháp cụ thể nhằm cân bằng hơn thương mại với Mỹ; đồng thời, chủ động bám sát, phối hợp để trao đổi với Bộ tài chính Mỹ để có đánh giá khách quan, đúng và tích cực hơn về chính sách tiền tệ-thương mại của Việt Nam (trong kỳ đánh giá kết thúc tháng 9/2019). Đồng thời, các cơ quan chức năng cần phối hợp kiểm tra, quyết liệt ngăn chặn tình trạng "đội lốt" nhãn mác hàng hóa, xuất xứ Việt Nam; và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm gian lận thương mại này.  

(TS.Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV)


Hằng Kim (ghi theo báo cáo của Nhóm tác giả)

Trí Thức Trẻ

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên