Lượng hóa các Gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng đối với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2020-2021 và một số kiến nghị
Trong 7 tháng đầu năm, các ngân hàng đã hỗ trợ nền kinh tế khoảng 34 nghìn tỷ đồng, dự kiến 5 tháng cuối năm sẽ hỗ trợ thêm khoảng 28,2 nghìn tỷ. TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV đưa ra 5 khuyến nghị nhằm thực hiện tốt các gói hỗ trợ thời gian tới, trong đó, ngoài gói 20 ngàn tỷ mà Bộ Tài chính đang đề xuất thì cần thêm việc tăng khả năng tiếp cận vốn hỗ trợ thanh khoản cho các doanh nghiệp.
- 21-08-2021Chuyên gia đề xuất Gói hỗ trợ bổ sung cấp bách, thiết thực cho người dân và doanh nghiệp lúc này
-
Ở kịch bản cơ sở, GDP Việt Nam năm nay sẽ tăng 5,5-6%. Ở kịch bản tích cực hơn, tăng trưởng cả năm có khả năng đạt 6-6,5%.
TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo "Lượng hóa các Gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng đối với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2020-2021 và một số kiến nghị".
Theo Nhóm tác giả, đại dịch Covid-19 xuất hiện từ đầu năm 2020 đến nay diễn biến khó lường, nhất là đợt dịch lần 4 từ cuối tháng 4/2021 trở lại đây vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân, hoạt động của tổ chức, doanh nghiệp và nền kinh tế… Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố dự báo tăng trưởng GDP năm nay của Việt Nam khoảng 4,8% (khá tương đồng với kịch bản cơ sở của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV là 4,8-5%), nhưng sẽ phục hồi và dự báo tăng trưởng 6,5% năm 2022. Lạm phát bình quân năm 2021 khoảng 3,2% (cao hơn dự báo của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV là 2,8-3%). Với vai trò kênh dẫn vốn chủ yếu của nền kinh tế (chiếm gần 50% tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2020), từ đầu năm 2020 tới nay, ngành ngân hàng đã có nhiều chính sách, biện pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân như miễn giảm lãi, phí; cơ cấu lại thời hạn trả nợ; cung ứng vốn cho nền kinh tế, kiểm soát chất lượng tín dụng; thúc đẩy ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt; đóng góp an sinh xã hội…v.v., dù bản thân ngành ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức trong hoạt động như các doanh nghiệp khác của nền kinh tế.
Báo cáo này lượng hóa các gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng đối với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2020-2021, nhận diện một số khó khăn và kiến nghị giải pháp tiếp theo nhằm góp phần giúp các chính sách đạt mục tiêu đề ra.
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - TÍN DỤNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ TỪ ĐẦU NĂM 2020 ĐẾN NAY NHẰM ỨNG PHÓ VỚI ĐẠI DỊCH COVID-19
Chính sách điều hành lãi suất và tín dụng của NHNN
Trong năm 2020, NHNN đã linh hoạt điều hành thị trường mở, điều chỉnh giảm 3 lần lãi suất điều hành, tổng mức giảm 1,5-2%/năm, hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng (TCTD), tạo điều kiện để TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN, từ tổ chức kinh tế và dân cư với chi phí thấp hơn, qua đó có điều kiện giảm lãi suất huy động vốn và cho vay, đưa mặt bằng lãi suất về mức thấp nhất trong 20 năm qua. Đồng thời, NHNN ban hành Thông tư số 08/2020 sửa đổi Thông tư số 22/2019, lùi lộ trình áp dụng tỷ lệ dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn thêm l năm nhằm giảm chi phí huy động vốn và duy trì dư nợ trung - dài hạn cho khách hàng.
Tháng 7/2021, sau khi có chỉ đạo của Chính phủ, NHNN; Hiệp hội Ngân hàng đã kêu gọi 16 NHTM (chiếm 75% tổng dư nợ toàn hệ thống) giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ nền kinh tế. Theo đó, nhiều ngân hàng (BIDV, Vietcombank, MB, Agribank, TPBank, ACB, HDBank, Sacombank…) đã đồng loạt công bố giảm lãi suất đối với cả dư nợ hiện hữu và cho vay mới từ 0,5-1% đối với khách hàng cá nhân và 1-2% đối với khách hàng doanh nghiệp, tập trung vào những ngành, lĩnh vực hoặc đối tượng chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19, với số tiền được lượng hóa cụ thể dưới đây.
Về tín dụng, đến cuối năm 2020, dư nợ tín dụng toàn hệ thống tăng 12,17% (thấp hơn bình quân giai đoạn 2016-2020 là 15,2% nhưng cao nhất khu vực Đông Nam Á). Năm 2021, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 12%. Thực tế, tăng trưởng tín dụng hết tháng 6/2021 đạt 6,44% (theo NHNN), thấp hơn mức tăng 7,36% của cùng kỳ năm 2019, nhưng cao gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2020 (+3,65%), cho thấy hoạt động tín dụng đã có dấu hiệu hồi phục trong nửa đầu năm 2021. Với tình hình dịch bệnh còn phức tạp, lực cầu nền kinh tế còn yếu, khả năng tín dụng cả năm nay tăng khoảng 10-11%.
Chính sách cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ và miễn, giảm lãi, phí
Để hỗ trợ khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, NHNN đã ban hành Thông tư 01 ngày 13/3/2020 tạo khuôn khổ pháp lý để các TCTD có thể cơ cấu lại nợ mà vẫn giữ nguyên nhóm nợ để khách hàng có thể tiếp cận được vốn; miễn, giảm lãi, phí…v.v. NHNN cũng đã ban hành Thông tư 03 ngày 3/4/2021 sửa đổi Thông tư số 01/2020 với 04 điểm khác biệt/sửa đổi chính: (i) bổ sung một số điều kiện để các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, trong đó nới rộng đối tượng và điều chỉnh thời gian cơ cấu lại nợ; (ii) mở rộng phạm vi các khoản nợ được miễn, giảm lãi, phí, gồm khoản nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 phát sinh trước ngày 10/6/2020 từ hoạt động cấp tín dụng…v.v; kéo dài đến ngày 31/12/2021; (iii) cho phép giữ nguyên nhóm nợ đã phân loại và đủ điều kiện được cơ cấu lại đến hết năm 2023; (iv) yêu cầu các TCTD trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) với lộ trình 3 năm (đến hết năm 2023)…v.v.
Theo NHNN, đến hết tháng 07/2021, các TCTD đã thực hiện: (i) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 198 nghìn khách hàng với dư nợ 309 nghìn tỷ đồng; (ii) Miễn, giảm, hạ lãi suất cho 787 nghìn khách hàng với dư nợ gần 1,4 triệu tỷ đồng; (iii) Cho vay mới lãi suất thấp hơn 0,5-2% so với trước dịch với doanh số lũy kế từ đầu dịch đến nay hơn 4 triệu tỷ đồng cho 525 nghìn khách hàng.
Sang tháng 8/2021, dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, NHNN đang lấy ý kiến việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020 và Thông tư 03/2021 với mục tiêu chính là: (i) mở rộng phạm vi cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với dư nợ phát sinh từ 23/1/2020 đến trước ngày 1/8/2021 (hiện nay là ngày 10/6/2020), (ii) gia hạn thời gian thực hiện cơ cấu lại đối với các khoản nợ phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi từ ngày 23/1/2020 đến ngày 30/6/2022 (hiện nay là ngày 31/12/2021). Theo Hiệp hội Ngân hàng, dự kiến sẽ có thêm khoảng 600 nghìn tỷ đồng dư nợ bị ảnh hưởng bởi Covid-19 sẽ được cơ cấu lại theo Thông tư sửa đổi. Như vậy, nợ xấu tiềm ẩn sẽ còn tăng và dự phòng rủi ro cũng tăng lên, kéo theo lợi nhuận hệ thống các TCTD sẽ bị ảnh hưởng, khó duy trì đà tăng trưởng như thời gian vừa qua.
Chính sách miễn, giảm phí dịch vụ
Năm 2020, NHNN đã ban hành 2 Thông tư hướng dẫn về giảm 50% mức phí thanh toán, đợt 1 đến ngày 31/12/2020, đợt 2 gia hạn đến hết ngày 30/6/2021. Sang năm 2021, sau khi chỉ đạo NAPAS tiếp tục chính sách giảm phí dịch vụ chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử, NHNN đã yêu cầu các TCTD tiếp tục duy trì chính sách miễn, giảm phí dịch vụ cho khách hàng, áp dụng từ ngày 1/8/2021 đến ngày 31/12/2021. Theo đó, các dịch vụ được miễn giảm, phí chủ yếu gồm dịch vụ thanh toán, chuyển tiền thông thường, chuyển tiền ủng hộ phòng chống dịch bệnh, các giao dịch online dịch vụ công …v.v. Tổng số tiền các TCTD miễn, giảm phí này kể từ đầu dịch đến nay khoảng 1,1 nghìn tỷ đồng.
Chính sách tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) để cho vay trả lương ngừng việc cho người lao động
Thực hiện Nghị quyết 42/NQ-CP ngày 9/4/2020 và Quyết định số 15/2020 ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, NHCSXH cho vay lãi suất 0% đối với doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực bởi dịch Covid-19 nhằm trả lương cho người lao động với tổng số tiền tái cấp vốn là 16.000 tỷ đồng, thời hạn giải ngân đến hết ngày 31/01/2021. Kết thúc chương trình, NHCSXH đã cho vay tại 56 tỉnh, thành phố với dư nợ 41,82 tỷ đồng cho 245 người sử dụng lao động để trả lương cho 11.276 người lao động.
Ngày 01/07/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 68/NQ-CP về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, tổng giá trị khoảng 26 nghìn tỷ đồng. Trong đó, phần cho vay lãi suất 0% hỗ trợ trả lương là 7,5 nghìn tỷ đồng (28,8%), thời hạn giải ngân đến hết ngày 31/3/2022. Tính đến ngày 17/8/2021, NHCSXH đã giải ngân gần 170 tỷ đồng cho 267 người sử dụng lao động.
Ngoài 4 chính sách hỗ trợ trên, năm 2020, ngành ngân hàng tham gia ủng hộ phòng, chống dịch Covid-19 khoảng 140 tỷ đồng và năm 2021 đến nay là khoảng 700 tỷ đồng.
Ngành ngân hàng tích cực hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn do đại dịch
ƯỚC LƯỢNG QUY MÔ VÀ MỨC ĐỘ HỖ TRỢ CỦA CÁC GÓI TIỀN TỆ - TÍN DỤNG
Quy mô gói hỗ trợ năm 2020:
Tổng số tiền ngành ngân hàng hỗ trợ nền kinh tế trong năm 2020 là khoảng 30,6 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 0,49% GDP năm 2020.
Quy mô gói hỗ trợ 7 tháng đầu năm và ước tính cả năm 2021:
Trong 7 tháng đầu năm 2021: Các ngân hàng đã hỗ trợ nền kinh tế khoảng 34 nghìn tỷ đồng, tập trung chủ yếu vào miễn, giảm lãi suất đối với dư nợ hiện hữu và cho vay mới với lãi suất thấp hơn.
Năm tháng cuối năm 2021: Sau khi có chỉ đạo của NHNN, Hiệp hội Ngân hàng đã kêu gọi các ngân hàng giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ nền kinh tế, theo đó 16 ngân hàng (chiếm 80% thị phần tín dụng) đã cam kết giảm 20,3 nghìn tỷ đồng lãi vay từ nay đến cuối năm, 4 NHTM có sở hữu Nhà nước còn cam kết giảm thêm 4 nghìn tỷ đồng ngoài gói hỗ trợ chung. Với giả định từ tháng 8, các ngân hàng thực hiện đúng cam kết giảm tổng 24,3 nghìn tỷ đồng lãi vay đến cuối năm, cơ cấu thời hạn trả nợ cho dư nợ 600 nghìn tỷ đồng…v.v., các TCTD sẽ giảm thêm khoảng 28,2 nghìn tỷ đồng (bao gồm cả giảm phí thanh toán).
Như vậy, dự kiến tổng số tiền ngành ngân hàng hỗ trợ cho nền kinh tế năm 2021 là khoảng 62,2 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 30% lợi nhuận dự kiến của ngành ngân hàng năm 2021. Nếu tính thêm cả con số trích lập dự phòng rủi ro bổ sung theo Thông tư 03 và Thông tư sửa đổi dự kiến của NHNN, số tiền của gói hỗ trợ còn lớn hơn nhiều (năm 2021, dự phòng rủi ro phải trích thêm theo Thông tư 03 là khoảng 42,6 nghìn tỷ đồng, còn theo Thông tư sửa đổi dự kiến là khoảng 69 nghìn tỷ đồng). Tuy nhiên, kỳ vọng sang Quý 2/2022, Việt Nam đạt được miễn dịch cộng đồng, nền kinh tế có sự hồi phục rõ nét hơn thì số tiền trích lập dự phòng rủi ro có thể ít hơn, cùng với tiến trình giảm nợ xấu và dư nợ cơ cấu lại.
NĂM KHUYẾN NGHỊ
Theo đánh giá của Citibank (tháng 7/2021) dự báo miễn dịch cộng đồng tại các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) ít nhất phải đến Quý 2/2022 mới có thể đạt được. Vì vậy, để thực hiện tốt các gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng nêu trên, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV có 5 khuyến nghị sau:
Một là, Chính phủ chỉ đạo khẩn trương rà soát, đánh giá sơ bộ kết quả thực hiện các gói hỗ trợ đến thời điểm hiện tại và tiến hành tháo gỡ ngay những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Thí dụ, Nghị định 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 đã hết hiệu lực nộp hồ sơ xin giãn hoãn thuế và tiền thuê đất từ ngày 31/7/2021; vậy vấn đề gia hạn sẽ như thế nào?. NHNN sớm ban hành sửa đổi Thông tư 01 và 03 ngay sau khi hoàn tất lấy ý kiến rộng rãi để vừa tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và vừa hỗ trợ TCTD.
Đặc biệt là Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 (quy mô 26 nghìn tỷ đồng). Tính đến ngày 12/8/2021, theo thông tin từ Bộ LĐ-TB-XH, tổng số lao động đã được hỗ trợ là trên 13 triệu lượt người với tổng số tiền là gần 6.000 tỷ đồng (23%), trong đó chủ yếu là nhóm chính sách bảo hiểm hỗ trợ 12 triệu lao động với số tiền khoảng 4.400 tỷ đồng; chính sách hỗ trợ tiền mặt mới phát cho hơn 1 triệu lao động với số tiền là 1.300 tỷ đồng; chính sách cho vay trả lương và phục hồi sản xuất đã hỗ trợ cho hơn 42.000 lao động với số tiền là trên 170 tỷ đồng…v.v. Rõ ràng là, khâu thực thi còn chậm, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh và thực hiện giãn cách xã hội quyết liệt như hiện nay và cần có thời hạn thực hiện cụ thể để đẩy nhanh hỗ trợ quý giá này.
Các chính sách này cùng với các gói giảm phí, lệ phí khác nên được tính toán để gia hạn, ít nhất là đến khi Việt Nam đạt miễn dịch cộng đồng (hết quý 2/2021). Đồng thời, nên xem xét điều chỉnh ngân sách hỗ trợ từ cấu phần này sang cấu phần khác thiết thực hơn.
Hai là, ngoài gói hỗ trợ 20 ngàn tỷ đồng mà Bộ Tài chính đang đề xuất; cần tăng khả năng tiếp cận vốn hỗ trợ thanh khoản cho các doanh nghiệp. Theo đó, sớm tháo gỡ vướng mắc đối với phương án đầu tư mua cổ phần của SCIC tại Vietnam Airlines cũng như các hãng hàng không tư nhân (theo hướng cho phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận, có ưu đãi đối với hãng hàng không đang bị thua lỗ nhưng triển vọng phục hồi trung – dài hạn là tích cực). Tăng khả năng tiếp cận vốn, hỗ trợ thanh khoản đối với DNNVV và có thể bao gồm các hãng hàng không tư nhân nêu trên (dưới dạng hỗ trợ lãi suất có trọng tâm, trọng điểm với gói tín dụng quy mô khoảng 60 nghìn tỷ đồng). Giá trị hỗ trợ lãi suất thực tế ước tính khoảng 2.500 tỷ đồng. Một số điều kiện cơ bản như lãi suất cho vay khoảng 4%/năm (tức là mức hỗ trợ lãi suất khoảng 4%/năm so với lãi suất thị trường). Việc cho vay thực hiện qua NHTM và Quỹ phát triển DNNVV (có thể cùng với bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV). Thời hạn cho vay khoảng 1 năm, nguồn vốn cấp bù lãi suất từ NSNN; tập trung vào các lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh như vận tải, du lịch, lưu trú – ăn uống, y tế, giáo dục – đào tạo…v.v.
Ba là, NHNN tăng cường cho vay tái cấp vốn, tiếp tục linh hoạt hạn mức tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD, để các ngân hàng có thêm nguồn lực giảm lãi suất, cung ứng tín dụng hỗ trợ nền kinh tế phục hồi.
Bốn là, NHNN tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho chuyển đổi số ngành ngân hàng – hoạt động đang phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn dịch bệnh và cũng là hỗ trợ các TCTD đa dạng hóa thu dịch vụ, đa dạng hóa nguồn thu; trong đó sớm trình Chính phủ ban hành Nghị định mới về thanh toán không dùng tiền mặt, cơ chế thử nghiệm hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng; cơ chế chia sẻ thông tin – dữ liệu giữa ngân hàng – fintech – trung gian thanh toán khác…v.v.
Năm là, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế để có thể huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn. Theo đó, Chính phủ cần chỉ đạo sớm ban hành Đề án cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có đề án cấu phần là cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2021-2025, trong đó có trọng tâm là đẩy nhanh tiến trình tăng vốn chủ sở hữu cho các TCTD, xử lý nợ xấu hiệu quả, trong bối cảnh nợ xấu đang gia tăng như phân tích ở trên và cũng là dự báo của WB công bố gần đây.