Ngành thủy sản sau 5 năm tham gia CPTPP: Cơ hội đan xen thách thức
Sau 5 năm Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực (từ 14/1/2019), thủy sản là một trong những ngành có nhiều thay đổi tích cực nhờ tận dụng ưu đãi thuế quan trong thương mại với các nước thành viên. Tuy nhiên việc gia tăng xuất khẩu sang các thị trường cũng gặp không ít rào cản.
- 20-01-2024Những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong năm 2023
- 20-01-2024Hà Nội cam kết tiến độ Vành đai 4 trước Quốc hội và Chính phủ
- 20-01-2024Hà Nội, TP.HCM đã nhận được nhiều bài học để làm đường sắt đô thị
Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (Vasep), sau 5 năm tham gia CPTPP, thủy sản là một trong những ngành có nhiều thay đổi tích cực nhờ tận dụng ưu đãi thuế quan trong thương mại với các nước thành viên.
Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường này đã tăng từ 2,2 tỷ USD lên 2,9 tỷ USD năm 2022 và đạt khoảng 2,4 tỷ USD trong năm 2023. CPTPP là nhóm thị trường có tỷ trọng tăng trưởng mạnh thứ 2, sau Trung Quốc. Nếu như năm 2018, nhóm thị trường CPTPP chỉ chiếm 25% xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, thì tới năm 2023 con số này chiếm gần 27%.
Sau 5 năm CPTPP có hiệu lực, đã có nhiều thay đổi rõ rệt với xuất khẩu thuỷ sản. Điển hình như việc gia tăng xuất khẩu vào các nước thành viên CPTPP như Canada, Chile, Peru, Singapore, Malaysia, Australia… mạnh mẽ hơn so với các thị trường khác. Thị phần của thủy sản Việt Nam tại các thị trường này tăng rõ nét, cho thấy thế mạnh cạnh tranh đã được hỗ trợ nhờ hiệp định CPTPP.
Đơn cử tại Canada, thuỷ sản là mặt hàng có thế mạnh nhất của nước ta tại quốc gia này. Số liệu từ Vasep cho thấy, thị phần tăng từ 7-8% lên 10%, trong đó riêng tôm tăng từ 18% lên 25% và đứng số 1; cá ngừ cũng tăng từ 6% lên 11% và đứng thứ 3 trong năm 2023. Hay tại Australia, tôm Việt Nam chiếm thị phần áp đảo 70%, tăng gần gấp đôi so với 32% trước khi ký hiệp định.
Cùng đó là xu hướng tăng nhập khẩu thủy sản vào Việt Nam để gia công, chế biến xuất khẩu đi các nước và cả tiêu thụ trong nước. Ngoài ra, sự hòa nhập còn thể hiện ở việc cùng nâng cao chất lượng, năng suất chế biến xuất khẩu nhờ những đầu tư, hợp tác về công nghệ, kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản.
Bên cạnh những cơ hội, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vào CPTPP cũng gặp không ít thách thức, rào cản.
Đề xuất giải pháp từ góc độ thị trường, Vasep cho rằng các doanh nghiệp cần tăng sức cạnh tranh khi các nước đối thủ như Ecuador, Ấn Độ có lợi thế về nguồn cung và giá cả và họ cũng có FTA với một số nước trong nhóm CPTPP. Ví dụ như: Ấn Độ có FTA với Malaysia, Singapore, Nhật Bản, Chile, Australia; Ecuador có FTA với Chile, Peru...
Còn về yếu tố khách quan là những biến động trên thế giới bao gồm dịch Covid-19, xung đột Nga – Ukraine dẫn đến đứt gãy chuỗi cung ứng, chi phí sản xuất tăng, thiếu nguyên liệu dẫn đến kịch bản hưởng lợi từ CPTPP không được như mong đợi.
Một thách thức làm giảm sức cạnh tranh và khả năng tận dụng tối đa cơ hội thị trường, đó là logistics cho ngành thủy sản không đáp ứng nhu cầu phát triển.
Biến cố trên biển Đỏ những ngày qua một lần nữa bộc lộ sự thiếu hụt của ngành logistics Việt Nam, khi mà các hãng tàu nước ngoài chi phối và độc quyền định giá và tăng giá cước cùng các giá dịch vụ vận tải.
Theo Vasep, về lâu dài, thương mại thủy sản trông chờ vào sự lớn mạnh của ngành logistics với mục tiêu lớn là phát triển đội tàu biển Việt Nam và hệ thống cung ứng container lạnh để nâng cao năng lực vận tải container quốc tế của Việt Nam, khi đó chúng ta mới có thế chủ động và khả năng cạnh tranh cao hơn trong chuỗi cung ứng hàng hóa, nhất là thực phẩm như thủy sản.
Đại đoàn kết