Project Syndicate: Vì sao thị trường tài chính tư nhân dần kém hấp dẫn trong 'mắt' các nước đang phát triển?
Trong vòng 2 thập kỷ qua, hầu hết các nước đang phát triển hay các thị trường mới nổi vẫn chưa tận dụng triệt để nguồn tài chính tư nhân nước ngoài. Hiện tại, các quốc gia này chủ yếu dựa vào sự chênh lệch giữa các dòng vốn nhằm giải quyết vấn đề kinh tế vĩ mô. Song, điều này có thể sẽ khiến nền kinh tế nảy sinh thêm nhiều vấn đề hơn.
- 22-06-2021Công bố bảng xếp hạng những thành phố áp lực nhất toàn cầu 2021: Hà Nội đứng ở đâu?
- 22-06-2021Mỹ công bố danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ nhận 55 triệu liều vaccine Covid-19, trong đó có Việt Nam
- 22-06-2021Báo Anh: Nhu cầu kho lạnh leo thang, các nhà phát triển bất động sản ngoại sắp tiến vào thị trường Việt?
Nhìn chung, quá trình luân chuyển vốn ở các thị trường mới nổi đang ở trong giai đoạn đầy biến động, chủ yếu là do những tác động của các yếu tố bên ngoài chứ không phải từ các chính sách nội tại của quốc gia.
Khoảng thời gian tính từ đầu năm 2020 đến nay là minh chứng rõ nhất. Theo dữ liệu của Viện Tài chính Quốc tế, tổng số vốn đổ vào các thị trường mới nổi đã giảm 13% vào năm 2020, xuống còn 313 tỷ USD. Tuy nhiên, con số này lại không thể hiện những thay đổi chi tiết của từng tháng, ví dụ như sự sụt giảm dòng vốn vào tháng 3/2020 và xu hướng hồi phục trong tháng 4, hay là những biến động đáng kể ở các tháng sau đó.
Các dòng vốn đầu tư này vẫn tương đối ổn định cho đến khoảng giữa năm 2021, ở mức 45,5 tỷ USD vào tháng 4 và 13,8 tỷ USD vào tháng 5. Những dòng vốn này chủ yếu chi cho chứng khoán nợ của các thị trường mới nổi. Kết quả là, trong quý 1/ 2021, khoản nợ của các nền kinh tế thị trường mới nổi đã tăng thêm 600 tỷ USD, đưa mức nợ của khu vực này đạt ngưỡng 86 nghìn tỷ USD. Trong khi đó, tổng nợ toàn cầu giảm 1,7 nghìn tỷ USD xuống còn 289 nghìn tỷ USD.
Trước tình trạng nền kinh tế suy thoái do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, việc các quốc gia phát triển phản ứng nhanh chóng với chính sách tiền tệ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc vực dậy dòng vốn đổ vào các nước đang phát triển.
Đối với một số nền kinh tế đặc biệt phát triển như Hoa Kỳ, việc mở rộng nguồn tài chính nằm ở việc nắm giữ nguồn vốn luân chuyển nước ngoài. Đây được coi là giải pháp đầy hứa hẹn nhằm mục đích phục hồi nền kinh tế. Nhưng sự phân chia các khoản đầu tư này cũng đi cùng rủi ro, có thể gây ra thiệt hại vô cùng lớn cho nền kinh tế của quốc gia này.
Tất nhiên, không phải nền kinh tế mới nổi nào cũng sẽ được gộp chung vào một nhóm với nhau. Như Trung Quốc là một ngoại lệ, quốc gia này không chỉ vượt trội hơn những quốc gia mới nổi khác về quy mô hay sức mạnh kinh tế, mà còn về khả năng kiểm soát hiệu quả đại dịch Covid-19. Bên cạnh đó, một số quốc gia khác như Ba Lan hay Philippines đã tận dụng dư địa tài chính dồi dào và vị thế mạnh mẽ của cán cân thanh toán để thúc đẩy quá trình khôi phục kinh tế.
Ngược lại, những quốc gia như Argentina, Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ lại phải đối mặt với vấn đề vừa phải đảm bảo phục hồi kinh tế, vừa phải đối phó với tình trạng mất cân đối kinh tế vĩ mô đồng thời giải quyết các khoản nợ chồng chất. Còn với Ấn Độ hay Mexico, dù không gặp khó khăn với những vấn đề liên quan tới các yếu tố nước ngoài, nhưng sự thận trọng quá mức về các chính sách tài khóa sẽ kìm hãm tốc độ phục hồi kinh tế của những quốc gia này.
Các nước đang phát triển coi việc hội nhập thị trường vốn là một cơ hội để tiếp cận ngày càng nhiều hơn với nguồn tài chính tư nhân nước ngoài. Những nguồn tài chính này sẽ được dùng để tài trợ cho những khoản đầu tư trong nước và chi tiêu công. Tuy nhiên, việc này có thể làm phát sinh một số mâu thuẫn đáng lo ngại.
Đầu tiên, một quốc gia có thể không phải lúc nào cũng được hưởng lợi từ sự chênh lệch của 2 dòng tiền trong tài khoản vốn, bao gồm dòng tiền vào và dòng tiền ra. Ví dụ như Malaysia, dòng vốn ra của quốc gia này nhìn chung đã vượt quá dòng vốn đổ vào trong vòng 10 năm. Nghĩa là các khoản tiết kiệm của nước này phần lớn đã chuyển ra nước ngoài. Với sự biến động của các dòng tiền này, kết hợp với tâm lý của các nhà hoạch định chính sách dẫn đến việc họ sẽ quyết định bảo hiểm các dòng tiền thông qua dự trữ số lượng lớn ngoại hối.
Giá trị của các khoản dự trữ ngoại hối là cực kỳ lớn, bởi vì các quốc gia thường dự trữ những khoản này dưới dạng các tài sản an toàn với tỷ suất sinh lời thấp, ví dụ như tín phiếu Kho bạc Hoa Kỳ. Điều này sẽ làm tăng thêm vấn đề về sự chuyển dịch của cải giữa các nền kinh tế mới nổi với các nước phát triển.
Hơn nữa, khi tổng tài sản nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi ít hơn các khoản nợ nước ngoài phải trả ở những quốc gia này, sẽ khiến cho một lượng lớn nguồn tiền của các quốc gia đang phát triển dịch chuyển ra nước ngoài.
Chuyên gia kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ Yılmaz Akyüz, từng là thành viên của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển, từng ước tính rằng trong giai đoạn 2000-2016, những khoản chuyển dịch như vậy chiếm tới 2,3% tổng GDP của các nền kinh tế mới nổi thuộc nhóm G20 mỗi năm.
Mặt khác, khi tham gia và tiếp xúc nhiều hơn với thị trường tài chính toàn cầu, hầu hết các nền kinh tế thị trường mới nổi sẽ không có khả năng thực hiện các khoản chi tiêu lớn như vậy. Với những áp lực như vậy nên nhu cầu mở rộng các nguồn tài chính cần thiết bị giảm xuống. Kể cả khi việc chi tiêu cho các vấn đề vĩ mô có cấp thiết đến đâu đi chăng nữa, như biến đổi khí hậu, thì cũng đều bị bỏ qua.
Dòng vốn chảy vào các thị trường mới nổi tăng lên trong giai đoạn đại dịch Covid-19 tạo ra ngày càng nhiều mâu thuận tại các nước đang phát triển. Cụ thể, nhiều thị trường mới nổi đã và đang phải đối mặt với các khoản nợ ngày càng gia tăng do những quốc gia này đi vay nhiều hơn. Khu vực tư nhân ở các quốc gia thu nhập thấp sẽ phải gánh nhiều nợ hơn so với khu vực công. Nếu tình hình trở nên khó khăn hơn, Chính phủ ở những quốc gia này sẽ phải đứng ra đảm bảo các khoản vay đó.
Ngay cả khi các khoản nợ bằng nội tệ do người nước ngoài nắm giữ cũng không đảm bảo được sự ổn định. Bởi nếu như nhận thức của những nhà đầu tư thay đổi thì sẽ dẫn đến việc bán tháo và đảo chiều dòng vốn. Hệ quả là đồng nội tệ sẽ mất giá và gây ra khủng hoảng cho hệ thống ngân hàng trong nước.